Năm Thứ 4890

www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com



Trùng Phùng Đạo Nội
Kim Định


 




 

Nội Dung

 Giới thiệu - Tựa

I. Từ An Vi tới Vô Vi

II. Tổng quan về Thiền

III. Tiến tŕnh xuất hiện của Vô Vi

IV. Vô Vi với cơ cấu

V. Lốt chân đạo nội

VI. Trống Việt thường lung lay bóng Phật

 PHẦN PHỤ TRƯƠNG

VII. Những hàm ngụ trong Tây Du Kư

VIII. Từ đốc hành tới hoá nhi đa hí lộng

IX. Tóm kết

X. Vài cảm nghĩ về bản dịch "Quyển Chơn Lư"

XI. Chính phương pháp và hiện thực

XII. Từ hoang mang tới tôi cuời tôi

XIII. Từ cuỡng hoà đến an hoà

 

TỰA

Từ hơn mười năm nay bên Việt Nam xuất hiện một lối tu Tâm dưỡng tính mới gọi là Pháp lư Vô vi và quăng từ 1980 th́ truyền bá mạnh trong các cộng đồng người Việt hải ngoại. Hiện nay số thiền đường đă lên tới gần một trăm ở rải rác khắp năm châu: Âu, Á, Mỹ, Phi, Úc đều có cả.

Thoạt nh́n th́ tưởng đâu là một thứ Yoga của Ấn Độ hay một chi nhánh thiền của Phật giáo. Nhưng xét kỹ tới đợt cơ cấu th́ mới thấy đó là một kết đúc tinh hoa của nhiều đạo pháp tâm truyền khác nhau, nhưng về mặt triết lư th́ phần căn bản hơn hết là do Việt Nho: cái xương sống của bộ triết lư An vi được khai quật lên từ Việt Nho cũng thấy chính là bộ xương sống của Vô vi, đến nỗi nói được Vô vi chính là đạo nội của Việt Nho nhưng xưa th́ bí truyền đến nay th́ phổ truyền sau khi đă được phục hoạt một cách dị thường đặc biệt. Bởi vậy tôi đề tựa quyển là Trùng Phùng Đạo Nội với mục đích nghiên cứu Vô vi theo cái nh́n của An vi, v́ thế đồng thời nó cũng là bản tóm triết lư An vi, nhất là về cơ cấu, bởi có đứng trong phương diện cơ cấu mới nói được Vô vi giống với An vi như mặt trong với mặt ngoài của một đồng tiền, như nội thánh ngoại vương, đến nỗi nói được rằng huyền sử của An vi chính là tiền sử của Vô vi. Đây quả là một duyên phúc lớn lao cho dân tộc Việt. V́ vậy quyển này muốn là một Việt Nam kiện An vi tiếp nhận Vô vi, và Vô vi được công khai kể như một kết tinh trác việt nảy mầm từ trong di sản thiêng liêng của dân tộc.

Kim Định

I. Từ An vi tới Vô vi

1. Vô Vi và Vô Vi

Nói đến Vô Vi người ta nghĩ ngay đến Phật và Lăo v́ nhà Phật theo thuyết Thái Hư với khẩu hiệu “vạn pháp giai vô”, Lăo th́ lấy “chí hư cực” làm cứu cánh, c̣n hữu vi là Nho. Nhưng khi nghiên cứu tường tận th́ hai chữ Vô Vi lại do Nho: lần đầu tiên trong quyển Luận Ngữ chương XV câu 4 rằng: “Tử viết: Vô Vi nhi trị giả, kỳ Thuấn dă dư. Phù hà vi tai? Cung hỷ chính Nam diện nhi dĩ hĩ = Thầy rằng: trong những người dùng đạo Vô Vi trị nước th́ phải kể tới ông Thuấn: ông có làm chi đâu chỉ cung kính giữ ḿnh, ngồi quay mặt về hướng Nam mà thôi”. Câu này có tính cách chính trị sẽ được giải rộng bằng nhiều câu có tính cách siêu h́nh trong cả Kinh Dịch, Đạo Đức Kinh. Ở đây chỉ xin trưng một câu trong sách Trung Dung:

Bất hiện nhi chương

Bất động nhi biến

Vô Vi nhi thành

Không hiện mà rơ

Không động mà biến

Không làm mà thành.

Như vậy là thuật ngữ Vô Vi có trước Lăo (1).

Sách Trung Dung chỉ là bản tóm của Kinh Dịch, một bản kinh chính cống Vô Vi, bởi ban đầu vốn là kinh vô tự, và là của Việt tộc. Thành thử chính nguồn gốc tối hậu của Vô Vi là do Việt Đạo cũng gọi là Đạo Trống (mà Trống Đồng đă nói lên một cách tuyệt diệu, xem chương V Sứ Điệp).

     Xưa người ta cứ yên trí Lăo Tử đồng thời với Khổng Tử là sai do cái lầm của Tư Mă Thiên lẫn Lăo Tử với một nhân vật huyền thoại. Điều này đă được chứng minh, nên nay các học giả quốc tế đặt Lăo vào thời Chiến Quốc quăng thế kỷ IV-III tr.c.n (xem chi tiết trong Needham II tr.35).

      Xin xem lại bài Nét Song Trùng ở quyển Kinh Hùng để biết đó là nét đặc trưng của Việt lư, nó khó vô cùng: v́ tính cách hàm hồ căn bản của nó là có-không, không-có. Nếu chỉ hẳn “có là có” như triết Tây, hoặc “không là không” như triết Ấn Độ th́ là sự thường. C̣n có mà lại không, không mà lại có th́ chỉ thấy cách hệ thống nơi Việt tộc với nền siêu h́nh gọi là “Đạo Trống”. Chữ Trống bao hàm cả có lẫn không, tức phải có cái ǵ mới không được: cái hang trống, cái nhà trống. Nói Đạo Trống phải hiểu là tâm trí phải được trống trơn không bận tâm đến những ǵ xảy ra tới hay nghĩ ngợi về những ǵ đă xảy ra. Đó là điều kiện rất tốt để đạt tâm linh.

Nguyên Nho đă công thức nổi Đạo Trống trong hai chữ âm dương: âm là không, dương là có. Về sau không và có được mở rộng trong câu nói thời danh là “vô cực nhi thái cực” vô cực mà vẫn thái cực. Đó là dấu Nguyên Nho bảo tồn nổi tính chất hàm hồ của Việt Đạo. Hăy đọc lại câu sách trên sẽ rơ: “bất biến nhi chương, bất động nhi biến, vô vi nhi thành”. Bất biến là không, nhưng không mà lại có, v́ có mới chương ra được. Bất động là không, nhưng lại biến được nên là có. Vô vi là không nhưng không mà lại thành, nên là có: v́ có mới thành được chứ.

Chính từ trong tư tưởng có mà không, không mà có này mà nảy ra câu ngạn ngữ “chân không diệu hữu”, để sửa lại lối hiểu không là không có ǵ, mà phải hiểu rằng cái có với không đang nói đến ở đây phải hiểu trên đợt siêu h́nh tâm linh, chứ không được hiểu ở đợt hiện tượng, nơi đây có là có, không là không phân minh rành rọt. Cái có với không này mọi người đều biết và phải dùng hằng ngày trong cơi hữu h́nh. Muốn đạt “có không” kiểu siêu h́nh phải đi ngược chiều. Muốn có lại phải đi t́m không, t́m cho tới cái Chân Không mới trông đạt Diệu Hữu.

Sách Trung Dung nói muốn đạt chân không phải đi tới “vô thanh vô xú” (lư tưởng của Trung Dung). Đó là điều cực kỳ khó, phải vượt được 4 đợt là vô h́nh, vô tượng, vô thanh, vô xú. Phần lớn triết học chỉ vượt đợt siêu h́nh, không đi nổi bước hai là siêu tượng, đă vậy làm sao đến hai cấp sau là siêu thanh, siêu xú. Triết duy ư vượt được siêu h́nh nhưng kẹt lại đợt tượng (tôi gọi là ư hệ do chữ tượng ư). Triết duy thức (phi thế) kẹt lại đợt thanh (tức danh từ chữ nghĩa nên kinh sách man vàn). Xuất thế của Lăo kẹt lại đợt xú, tức tiềm thức bị cái không ám ảnh: quá chú ư đến cái không đến lơ là cái có. Riêng Việt Nho đă có lần đi qua cả 4 đợt như được ghi lại trong sách Trung Dung.

Sách đó đă đưa ra một nguyên lư tuyệt diệu trong ba chữ “Chí Trung Ḥa” lấy từ câu phát đoan của sách rằng: “Trung dă giả thiên hạ chi đại bổn dă, Ḥa dă giả thiên hạ chi đạt đăo dă, Chí trung ḥa thiên địa vị yên, vạn vật dục yên”. Như vậy Trung là gốc rễ của Đạo, c̣n Ḥa là hậu quả của đạt Đạo, tới được Chí Trung Ḥa th́ thiên và địa được định vị, và vạn vật được nuôi dưỡng. Muốn biết Trung đi tới đâu trên nấc thang dẫn tới “vô thanh vô xú” th́ xem hậu quả có bao hàm toàn bộ chăng. Toàn bộ đó gọi là diệu hữu, diệu hữu phải gồm cả có lẫn không, cả sáng lẫn tối... được như vậy mới là Chí Trung, mà có Chí Trung mới đạt Chí Ḥa, là ḥa được cả có với không, động với tĩnh, nhất với đa... Ngược lại không ḥa tới nơi th́ hiểu là Trung chưa tới cùng tột, mà Trung không cùng tột th́ không thể ôm cả Có với Không một trật. Nói khác Chí Trung là Vô vi. Chí ḥa là hậu quả. Vô vi th́ vô h́nh ta khó có thể xét nội tại cao thấp tới đâu, nhưng Chí Ḥa là cái đă hiện h́nh ra ngoài th́ ta có căn cứ vững làm thước đo. Chỉ xem thuyết lư nào gây được chí ḥa cao thấp đến đâu là biết được độ Vô vi của thuyết đó. Nói cụ thể vào người th́ vạn vật hiểu là t́nh lư, tiểu ngă đại ngă. T́nh được nuôi dưỡng tài bồi mà lư trí cũng được phát triển, không duy t́nh hay duy trí. Tiểu ngă được chăm nom mà Đại ngă cũng được vun bồi. Thế mới là Thiên Địa vị yên, vạn vật dục yên. Nói vào An vi là Hữu vi được chăm sóc, mà không bỏ bê Vô vi, trược cũng học mà thanh cũng học v.v... Đấy là đại để nguồn gốc và ư nghĩa sâu xa của Vô vi. Thứ Vô vi này là nền tảng cho tam giáo Thích, Lăo, Nho. Nhưng sau tất cả đều suy vi thoái hóa.

Chính v́ chỗ suy thoái chung nọ mà chúng tôi phải đặt ra tiếng mới là An vi chống với cả Vô vi lẫn Hữu vi để tŕnh bày khuôn mặt chân truyền của nền triết Việt theo nghĩa Việt là phải thực sự siêu việt. Khi cái nào siêu việt thực sự th́ nó bao hàm chính cái nó vượt qua khi đă gạn lọc cho sạch cát bụi, thí dụ Vô vi chính truyền có bao hàm cái Hữu vi, nếu không bao hàm nổi th́ cái Vô vi nọ trở thành thứ duy nào đó tức đă sa đọa. Chính bởi Việt lư (tên mới là An vi) đă bao gồm được cả hữu vi lẫn vô vi, nên trong thực tế nó gặt hái được nhiều kết quả hơn hẳn hai đối cực kia. Nó hơn hữu vi v́ đă thiết lập nổi nền Nhân chủ khiến con người được hưởng thong dong tự tại, được đặt vào vị trí ngang Trời cùng Đất.

Trời đất ta đây một chữ Đồng”.

An vi cũng đạt được nền Dân chủ, tức thiết lập được chế độ b́nh sản cũng như phá được chế độ nô lệ. Đó là hai ân huệ căn bản cho kiếp người mà trong 25 thế kỷ qua không nền triết nào đạt được đến độ bằng triết lư An vi.

2. Tại sao lại chấp nhận Vô vi?

Thế tại sao nay lại dọn nhận Vô vi? Thưa Vô vi được đón nhận ở đây là một Đạo Pháp phải viết hoa để chỉ đó là Đạo Pháp mới được Thượng Đế ban cho loài người, nó chưa bị suy thoái như sẽ nói đến sau về quyển Chơn Lư với hiện tượng Kim-Thân-Cha. Chính hiện tượng này đă làm tôi kính nể Vô vi và cuối cùng chấp nhận.

Quả thực đây là Vô vi thứ thiệt. Vô vi đến Việt Nam tận cùng nên rất cân đối có cả trong lẫn ngoài, cả trược lẫn thanh. Đây quả là một phương pháp thực tiễn căn cứ trọn vẹn trên con người, không dùng cái ǵ bên ngoài: không kinh kệ, không tượng ảnh, tuyệt đối đề cao con người, hoàn toàn dân chủ: cả đến nhà truyền pháp cũng không chịu xưng là thầy, tất cả đều là bạn đạo. Đó là điều đặc biệt của Vô vi, và đó là chỗ đáng nể hơn cả, bởi như vậy Vô vi tỏ ra có tinh thần mạnh khỏi cần tổ chức.

Tổ chức chỉ cốt để trợ lực cho tinh thần. Tinh thần c̣n cần trợ lực nhất định không mạnh bằng thứ không cần tổ chức. V́ tổ chức là phần hữu vi sắc tướng, tuy có hỗ trợ tinh thần được phần nào, nhưng cũng tạo điều kiện cho người đời lợi dụng: xưa nay “lấy đạo tạo đời” là thường, tư nhân cũng như chính quyền. Có tôn giáo hay thuyết lư nào trong dĩ văng không bị lợi dụng chưa? Mà lợi dụng là đầu mối làm sai lạc đạo pháp. Tất cả mọi thuyết lư cũng như giáo lư đều bị thoái hóa phần lớn v́ đó. Cho nên không chịu cho tổ chức là Vô vi tỏ ra đích thực là Vô vi, Vô vi chính tông, nó hứa hẹn một tương lai chính truyền miên viễn. Đây là điểm đầu làm cho Vô vi không là một tín ngưỡng mà là một phương pháp khoa học bất cứ người tôn giáo hay triết thuyết nào cũng có thể thực hiện.

3. Vô vi giống An vi chỗ nào?

Ở đây chỉ cần nói tổng quát rằng Vô vi giống với An vi hơn tất cả mọi nền triết cổ xưa, Đông cũng như Tây ở chỗ cả hai đều nhấn mạnh đến chữ tự cường, tự lập. Vô vi đặt trên chữ “tự tu tự tiến” An vi đặt trên chữ “tự đạo, tự thành” gọi là đặt nền trên đợt An hành tức bên trên Cưỡng hành và Lợi hành. Cưỡng hành là làm v́ sợ trời đánh thánh vật. Lợi hành là làm để được lợi lộc nọ kia có tính cách vật chất, gọi tất là Địa lợi tức những cái lợi có thể cột chặt con người vào cơi hồng trần. An hành trái lại thấy đáng làm là làm, làm v́ lẽ phải, v́ công ích, v́ thành nhân, tức là đặt nổi chữ “tự chủ tự lập” không để ḿnh bị lợi dụng điều khiển. Chính v́ nét đặc trưng chung này mà xét đến cơ cấu và định đề cũng như nguyên lư cả hai đều như nhau, như sẽ được chứng minh sau. Riêng về hành pháp th́ An vi có thất truyền phần nào về mặt công phu nhưng về công quả và công tŕnh th́ c̣n lại khá nhiều, nên không đến nỗi chỉ lư thuyết và biểu tượng suông mà c̣n có nội dung chân thực, đó là pháp “tôn tâm dưỡng tính” với những mối t́nh người cao cả, cũng như những tôn chỉ hành xử: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, tất cả đều làm nên công quả công tŕnh đích thực. Nhờ thế Việt Nho kể là bị suy thoái ít nhất.

Khổng Tử được tiếng là đă hiện thực được bốn cái Vô trong nội tâm là:

- Vô ư: không bám vào ư niệm kiểu duy lư.

- Vô tất: không bám vào tất định kiểu tất mệnh.

- Vô cố: không cố chấp nhưng theo thuyết tuỳ thời.

- Vô ngă: không bám vào tiểu ngă nhưng cố vươn lên Đại Ngă Tâm Linh.

V́ thế bên ngoài tránh được mấy cái hữu vi sắc tướng sau là: không miếu mạo chùa chiền, không cúng vái cầu đảo, không đặt ra hàng sư ni phương sĩ, không thâu nhận mê tín dị đoan... Kinh Điển cũng chỉ có chừng mực, mà toàn nói về đời sống sao cho hợp Đạo, c̣n chính Đạo th́ giữ đúng câu “Đạo bất khả ngôn” không dám nói đến. Điều này đặc biệt hơn cả, nhưng chính v́ thế mà người đời tưởng là Nho chẳng có ǵ, mà không ngờ rằng đó là cái Không đầy ứ những cái Có ẩn tàng. Vô cực mà vẫn là Thái cực (vô cực nhi thái cực) tức là một tay Vô vi cao độ vậy.

Về công phu th́ có song bị thất truyền, nhưng c̣n thấy dấu vết trong những câu nói của môn đệ như “vừa học vừa tập vui biết mấy”: “học nhi thời tập chi bất diệt duyệt hồ”, hoặc người quân tử nghĩ luôn đến rèn luyện con người “như cắt như dũa, như đục như mài”: “hữu phỉ quân tử như thiết như tha như trác như ma”. Phải có một hành pháp nào, một lối sống công phu nào đó mới có những câu nọ. Những câu đó quả là những dấu chỉ Tâm đạo xưa, nhưng hành pháp đích thực ra sao th́ nay không biết đích xác. Chắc rằng nó nằm một phần trong lễ nhạc, nhưng nhạc đă thất truyền nên người sau không biết căn cứ vào đâu mà theo. Chính v́ thế mà trong công cuộc trở về nguồn tôi cứ cố t́m cái hành pháp nọ.

4. Chiếc ghế hư linh đă có tọa vị

Năm đầu tiên vào dạy triết Đông ở Đại học Sài G̣n (1961) tôi đă khai mạc bằng khoá giảng tựa đề là “Tự Chiêu Minh Đức” nhằm phân tích và quảng diễn bốn bước định, tĩnh, an, lự trong đầu sách Đại học:

Định là định thần tập trung tâm trí mà đích điểm là đi tới chỗ định hướng tinh thần.

Tĩnh là yên lặng hiểu cả về xác thân, cảm xúc cần được luyện lọc để trở nên thanh thoát, cũng như về mọi nhu yếu trong con người phải được nuôi dưỡng (vạn vật dục yên) th́ không c̣n sự rấy loạn.

An là trạng thái an nhiên tự tại trong hành động lẫn tư tưởng: bao nhiêu sinh lực đều được đầu tư trọn vẹn vào việc làm.

Lự là suy tư sáng suốt. Thường người ta hay tư lự, đây phải là an lự. Tư lự là suy tư trên sự kiện, trên vật thể nhỏ bé hoặc ích lợi tư riêng vụn vặt. An lự suy tư về những cái bao quát, về ích chung, hoặc những ǵ thanh thoát: nó dẫn đến an hành, trong khi tư lự dẫn đến lợi hành hay cả cưỡng hành. V́ vậy chữ lự ở đây hiểu được là hành. An lự cũng là An hành.

Như vậy đường tu có hai chặng một vào một ra. Vào là hai bước định tĩnh để đi tới Chí Trung. C̣n ra là hai bước An và Lự: để tới Chí Ḥa: tức ra với đời, với sự việc. Đó gọi là xử thế. Chính do hai bước sau này làm cho Việt Nho khác màu sắc với Thích, Lăo. Ở Thích có thể nói là chỉ có đi vào: Định tĩnh rồi tịch diệt: niết bàn, thái hư, nên gọi được là phi thế. Ở Lăo cũng chỉ có đi vào: Định tĩnh rồi ngồi lại nhà mà thủ tĩnh đốc: tuy không chối sự hiện hữu của trần tục, nhưng không chịu ra nữa, không chịu vào đời nên gọi là xuất thế. C̣n Nho th́ nhập cuộc nên gọi là xử thế: xử thế đi với An lự, nó đến sau định tĩnh, nếu thiếu hai bước định tĩnh mà vào đời liền th́ gọi là nhập thế, như thế tục sống vật lộn với đời: trôi theo đời Nho gọi là “lưu tục”.

Đó là đại khái nội dung khóa tŕnh Tự Chiêu Minh Đức. Khóa tŕnh này chỉ quay ronéo chứ không được in thành sách nhưng tôi phải nhắc lại ở đây v́ nó giúp cho sự nhận diện An vi cũng như Vô vi. Sở dĩ không ra sách v́ tôi cảm thấy phần công phu chưa t́m ra khiến tôi phải mượn yoga hơi nhiều, mà yoga nói chung th́ tuy tôi chấp nhận và đă tập luyện, nhưng chưa muốn giới thiệu v́ với hành pháp phiền toái cần có vị linh hướng, mà phần triết lư lại thiên lệch, nên mặc dầu sinh viên yêu cầu tôi vẫn không cho xuất bản, là có ư c̣n t́m thêm cho ra pháp hành nào ứng hợp hơn nữa. Thế là tôi tiếp tục nghiên cứu hết Ấn đến Phật rồi Nho và cuối cùng đến Việt mong t́m ra một phép tu đáp ứng được những đ̣i hỏi của triết Việt, mà tôi cho là đă có lúc đạt được “Chí Trung Ḥa”.

Nhờ cuộc nghiên cứu kéo dài nọ mà tôi gặt hái được nhiều ơn ích về mặt văn học cũng như thâm tín thêm về con đường Định, Tĩnh, An, Lự đích là con đường hợp t́nh lư của dân tộc cũng là nhân tộc như được ghi lại cách tiềm ẩn trong Trống Đồng. Và tuy có thất truyền, có suy thoái nhưng v́ tất cả các môn phái khác c̣n suy thoái nhiều hơn nên trong nước mù anh chột làm vua. Tin tưởng như thế nên tôi đă khai quật nhiên liệu kho tàng văn hóa dân tộc và Nho nguyên thuỷ để thiết lập ra nền triết An vi hầu hướng dẫn đời sống tư riêng của con người cũng như cho cả nước. Tuy nhiên vẫn c̣n cảm thấy thiếu một hành pháp cặn kẽ, nên tôi vẫn cưu mang trong ḷng ư định t́m một pháp hành nào đó mà tôi cảm thấy nó bàng bạc trong biết bao huyền thoại, truyện tích, biểu hiệu cũng như những lễ cổ xưa: nào Tế Thiên, Nguyệt Lệnh, nào Tứ Quư, nhà Minh Đường với Đạo nội, Đạo tiên v.v... Tôi tính sẽ tŕnh bày trong bộ Ngũ kinh Việt mang tên là Kinh Hùng, Kinh Ước, Kinh Ngữ, Kinh Nghĩ, Kinh Lạc. Mấy tên kinh kia mới chỉ như cái ghế rỗng để đón tôn sư, nhưng tôn sư chưa xuất hiện nên chưa dám viết thêm, th́ may thay đến giữa năm 1982 lúc tôi vừa viết xong quyển cuối cùng của triết lư An vi th́ bị một cơn bệnh rất nặng kéo dài hai tháng và do đó tôi gặp được Pháp lư Vô vi nên tôi cho là Trời đă xếp đặt như thế để chước cho tôi việc hiện thực bộ Ngũ kinh Việt. Nay đă gặp Pháp lư Vô vi mà tôi thấy nó giống với Việt Đạo từ nguyên lư đến cơ cấu nên tôi chấp nhận và nghĩ là nó có thể thay cho dự định kia một cách viên măn ở chỗ gia tăng thực chất cho tất cả các biểu tượng của An vi.

II. Tổng quát về thiền

1. Mục đích và phương pháp thiền

Mục đích thiền là phát triển hết cả khả thể tàng ẩn trong con người để trở nên Người toàn diện, nói khác là đi đến chỗ hội nhập được cả trong lẫn ngoài vào một thực thể thống nhất, không để phần nào mâu thuẫn nhau hay cả ngổn ngang tản mác. Nói thông thường th́ thiền là để đạt được một tư cách mạnh, để hiện thực chân tính đến độ tṛn đầy viên măn mà Nho gọi là thành hay thánh cũng vậy “thành giả thánh dă”. Thánh nhân chính là người đă hiện thực được đầy đủ nhân tính. Mà nhân tính đích thực th́ cao cả vô cùng, cho nên Nho nói thêm “chí thành như thần” tức dù cao cả như thần linh cũng là một khả thể đă tàng ẩn sẵn trong người, hễ biết phát triển vun bồi th́ sẽ đạt.

Muốn đạt phải dùng phương pháp nào? Thưa là làm việc cách tận t́nh, tận ư, tận chí. Nho gọi là đốc hành. Muốn có đốc hành th́ người ta dùng phương pháp mà Đạo học gọi là “thủ nhất” = giữ riết cái một tức là trong một lúc chỉ làm một việc, dồn cả tâm hồn: ư, t́nh, chí, cả thể xác nữa vào có một việc và chỉ một việc đó thôi. Đang ăn th́ chỉ nghĩ đến ăn, đang hát th́ chỉ nghĩ đến hát, đang học th́ chỉ nghĩ đến học. Việc làm được như vậy sẽ đưa đến hậu quả lớn bất ngờ mà Nho gọi là như Thần. Ta có thể lấy thí dụ nước sông, suối đang chảy lan tràn hỗn độn, có khi c̣n gây lụt lội mất mùa... nhưng nếu người ta đắp đập để quy tụ nước cho chảy vào một điểm th́ sức mạnh sẽ tăng cả ngàn triệu lần đẩy được máy sinh điện gây nên sáng láng. Cũng vậy, nếu biết quy tụ được trọn ư t́nh chí vào một việc, và chỉ một việc trong một lúc, th́ việc đó sẽ đẩy rất sâu vào nội tâm đến bờ đại dương của những khả thể tiềm ẩn trong con người: đạt đến đợt thánh đợt thần. Thiền là cốt để quy tụ t́nh ư chí vào một việc. Hiện nay quá ít người có nhân cách cao, ít hiền nhân quân tử, ít thánh ít thần là chỉ v́ thiếu quy tụ tức khi làm một việc th́ tâm trí để vào hai ba việc, thành thử sinh lực bị tản mát, không được đến chỗ cùng cực để đạt chỗ như thần. Muốn chữa trị bệnh tản mát, hay cả mâu thuẫn th́ đó là thiền.

Như vậy điều quan trọng để nên người lớn không phải là đối tượng lớn của việc, tức làm việc to hay việc nhỏ không quan trọng, mà quan trọng nằm chính trong cách làm phải có lớn, có làm được cách cùng kỳ cực chăng. Tâm trí có dồn trọn vào đó chăng, nếu được th́ sẽ đạt cao cả. Như vậy khởi đầu thiền chỉ là việc thường thường nhưng kết quả sẽ là làm người đến cùng cực. Nói mở rộng là sẽ hội nhập được cả nội lẫn ngoại, hay cả thiên cả địa cũng thế. Tâm linh sẽ là Thượng Đế. Thiền sẽ trở nên như một tôn giáo cao siêu khi hiểu tôn giáo là nối con người với Thượng Đế. Tất cả bấy nhiêu điều cao siêu lạ lùng cũng chỉ là hậu quả của những việc làm rất thông thường, nhưng là tới chỗ cùng cực. Nho nói: “quân tử vô sở bất dụng kỳ cực”: “người quân tử không làm ǵ mà chẳng làm đến chỗ cùng cực” là do lẽ đó.

2. Những thành tố của thiền

Để đạt mục tiêu trên (đốc hành) khoa tâm lư đă mở đầu bằng phân tích việc làm ra nhiều thành tố đơn giản, thí dụ chỉ nh́n một vật nào bất kỳ, nhưng nh́n chăm chú, không chia trí sang chuyện khác, nh́n càng lâu càng tốt. Khi đă quen th́ mới tập trung tâm trí vào việc khác. Thở cũng vậy, chỉ nghĩ đến thở, đến từng hơi thở, nghĩ đến từng nhịp đi của hơi thở. Đạo Lăo gọi là “đạo tức” mục đích chính là nhằm huấn luyện tâm trí bắt phải theo vào một đường lối để có thể đi cùng cực xa.

Thứ đến để được hiệu nghiệm hơn khoa tâm lư lại phân tích cả tâm hồn con người thành từng thành tố nhỏ, đó là ư, t́nh, chí. Các đạo pháp đă căn cứ vào ba yếu tố này mà thiết lập ra vô số thiền nhưng quy tụ lại được ba loại theo ba thành tố trên:

Ư: con đường lư trí đi đến cùng đi đến chỗ vượt qua lư trí th́ gọi là tuệ. Trí tuệ cũng nói là huệ, bên Ấn gọi con đường này là minh triết thiền (Jaina yoga).

T́nh: phát triển t́nh cho ngày thêm thâm sâu và mở rộng, để chấp nhận và yêu thương tất cả mọi người như Từ bên Phật, Bác ái bên Thiên Chúa giáo. Đường này bên Ấn gọi là sùng mộ thiền (bhakti yoga) nhằm tôn kính mến yêu Thượng đế hay một vị thánh nhân nào đó.

Chí: Nho nói rộng là “chỉ ư chí thiện” gồm hai ư niệm một là t́m ra cái tốt nhất để theo, hai là theo cái tốt đó cách bền bỉ. Cả hai điều đó đều khó cả. Cái khó thứ nhất có thể quy về ư: đó là việc của lư trí. Cái khó thứ hai là của riêng chí. Nho gọi là Dũng. Làm một việc ǵ lâu bền phải có đức Dũng. Công việc nào cũng vậy mới bắt đầu th́ tương đối dễ v́ được nâng đỡ bởi sự hăng say của bước đầu cũng như của sự mới lạ. Nhưng sau khi nhiệt t́nh ban đầu hạ xuống rồi mà c̣n kiên tŕ được th́ phải có đức Dũng cách riêng. Bên Ấn gọi là Karma Yoga = tác động thiền hay hành thiền.

Ngoài ba mối trên bên Ấn c̣n thêm một thành tố nữa là thân xác gọi là Hatha Yoga. Thí dụ việc thở, việc thể dục, các lối vơ như vơ Bảo Truyền, Nhu đạo, Vô vi nam, cả đến các việc thường ngày: kết hoa, đánh kiếm, làm bếp, quét nhà, gánh nước đều có thể cho vào yoga. Tóm lại bất cứ làm việc nào mà để hết tâm trí vào th́ đều có thể gọi là thiền.

Đó là đại khái 4 thành tố thiền. Nó là 4 mối thường t́nh mà con người gặp ngay trong đời sống theo lương tri thường nghiệm cũng đă có bấy nhiêu, nhưng khi hiện thực theo thiền th́ làm cho các thành tố đó vượt lên một độ trên:

Trí thêm Huệ

T́nh thêm Tính

Chí thêm Tâm

Nho quy tất cả vào chữ Tâm mà gọi tâm trí, tâm t́nh, tâm chí. Đó là nét song trùng cơ bản. Muốn thiền thành công hay bất cứ việc ǵ muốn thành tựu thấu đáo phải hiện thực được nét song trùng cơ bản nọ, nghĩa là trí không được duy trí, duy ư, mà phải mở sang huệ thành ra trí huệ. T́nh cũng không được duy t́nh nhỏ bé mà phải mở cho t́nh sang Tâm cao cả, để yêu thương khắp loài người, yêu mến cả Thượng Đế vô h́nh vô tượng. Chí cũng phải mở lên đến chỗ cao cả thành Tâm chí. Nối hai đàng nối vào nhau đó là mục tiêu của thiền, của tôn giáo, của triết lư.

Tất cả các đạo pháp đều là theo một hay nhiều thành tố vừa kể trên. Phần nhiều là gồm cả 4, khác nhau chỗ nhấn. Nhấn trên ư th́ là minh triết thiền đó là đường triết lư Nho giáo gọi là Minh thành. Nhấn trên t́nh th́ là thiền sùng mộ, là tôn giáo Nho gọi là Thành minh... Do đó có thiền phi tôn giáo như Zen. Có thiền rất mực tôn giáo. Nhưng tôn giáo trong thiền chỉ c̣n là cái tinh tuư của tôn giáo là mến yêu để kết hợp với Thượng Đế, chứ không c̣n nghi lễ bái cúng, là cốt để dễ thi hành khẩu hiệu “trong một lúc chỉ làm một việc” như trường hợp Pháp lư Vô vi sẽ được nói đến sau.

3. Những trở ngại gặp trên đường thiền.

Ta đă bàn về mục đích gần của thiền là trong một lúc chỉ làm một việc. Lư do dễ hiểu là một lúc mà làm nhiều việc hay tuy một việc nhưng phiền toái th́ khó đi tới cùng cực, không “chỉ ư chí thiện” được. Vậy mà việc đó khó vô cùng: bạn chỉ việc ngồi rất im rồi ngắm một vật nào thí dụ cái bút và chỉ ngắm có cái bút, không nghĩ ǵ khác, làm như vậy trong 5 phút. Bạn sẽ ngạc nhiên thấy tâm trí ḿnh thiếu kỷ luật lạ thường. Nhà Phật nói “tâm viên ư mă” là muốn ví tâm với vượn đu hết cành nọ đến cành kia, và ư như ngựa bất kham thích đi hết mọi nẻo, trừ nẻo đường chủ muốn nó tới. Xem thế nếu không trải qua một cuộc vun bồi luyện tập có phương pháp và bền chí th́ không thể nào trong một lúc chỉ làm, chỉ nghĩ có một việc được. Thiền lập ra cốt để rèn luyện tâm trí để có thể làm được việc nọ. Nho gọi thiền là định tức định tâm trí vào một việc mà thôi.

       Định được thí dụ 1 giờ gọi là tiểu định.

Định được thí dụ 2 giờ gọi là trung định.

Định được thí dụ 3 giờ liền th́ gọi là đại định.

Đến được trung định có thể gọi là thành (full humanhood)

C̣n đại định là chí thành th́ như thần.

Biết được cấu trúc của thiền như trên rồi th́ ta có căn cứ để biết đâu là những trở ngại. Trở ngại là những ǵ ngăng trở ta không thể định được lâu, không thể trong một lúc chỉ làm có một việc.

Trở ngại đầu tiên là xác thân, phải sao cho được khoan khoái để khỏi rấy loạn hay thiếu sức đi với tâm chí. Các lối hăm ḿnh phạt xác xưa th́ nay đều bỏ hầu hết, ngầm hiểu đó là một ngăng trở chung. Phật chỉ đắc đạo sau khi uống li sữa do một nữ sinh dâng.

Ngoài ra chính lúc thiền phải ngồi kiểu nào để thân xác không phản đối (bằng tê mỏi thí dụ) lúc no quá hay đói quá cũng trở ngại ở chỗ làm chia trí ra. V́ thế chỉ dùng có chừng. Tương đối tốt hơn cả là các lối ngồi kiết già, bán già, xếp bằng... hay kiểu nào hợp cho ḿnh có thể  ngồi hằng giờ mà xác thân không bị khó chịu. Ta thấy ngay cũng phải rèn luyện cả năm chưa chắc đạt. Có điều đây là trở ngại tương đối dễ vượt qua, v́ dễ thấy. Bây giờ ta sẽ đi vào các trở ngại tế vi hơn:

Trước hết là các hiện tượng như khi nhắm mắt mà xem thấy h́nh nọ, vật kia, các màu sắc rực rỡ rồi cả xuất vía, xuất hồn... những hiện tượng này có thể xảy đến cho một số người ít hay nhiều do tác động đốc hành mà ra. Y như khi ta tập vơ có phương pháp hẳn ḥi th́ ít lâu sau sẽ có nhiều biến chuyển trong ḿnh: khoẻ mạnh, mau lẹ, đi đứng cảm thấy người nhẹ nhơm khác trước. Cũng vậy đốc hành là việc luyện tập cả ư, t́nh, chí, nên có thể xảy ra những hiện tượng khác thường (paranormal). Tuy nhiên đâu là tà đâu là chánh, đâu là chủ quan ảo tưởng, đâu là đích thực... tất cả rất khó phân biệt. Nếu phải để trí vào đấy th́ sẽ là một trở ngại cho việc tu tiến. Vậy khi thấy những hiện tượng nọ ta có thể mừng coi như là hậu quả của sự tập luyện đă tinh tiến khá của ta. Và chỉ đến đó thôi không nên quan trọng hóa lấy đó làm tiêu chuẩn định mức tiến cao thấp, hoặc để tâm cầu ước, hay mừng rỡ quá đà đến làm chia trí ra không c̣n theo đuổi được việc tinh tiến tu luyện nữa. Trong Phật có truyện kể một vị t́ kheo đi đến sông không đ̣, ông liền cởi áo ra làm thuyền sang sông. Về đến nhà Phật hỏi đêm khuya không đ̣ sao về được? Thưa con giải áo ra làm thuyền. Thế là bị đuổi ra khỏi chùa. Đó là ẩn dụ ngăn ngừa không cho hành giả chú tâm vào những điềm lạ. Không Tử tránh điều đó mà ông gọi là “sách ẩn hành quái” kẻo bán đồ nhi phế (nửa đường bỏ dở) là vậy. Lịch sử có ghi những “ông thánh” làm phép lạ mà tâm trí nhỏ nhen, cố chấp... là v́ đó (xem chẳng hạn Practical Mysticism by Evelyn Underhill, London J.M.Dent 1914).

Trở lực thứ hai là đừng nói về đạo ở tầm xa tŕnh độ ḿnh như về thần tiên. Trước hết nói về những truyện đó chỉ là chuyện chơi bằng những tượng ư (ư lấy từ sự vật hữu h́nh) gọi là duy thức chứ không có nội duy. Đă vậy lại có nguy hiểm là coi thường trần thế đến độ cho là không có thực, mà chính ra là nó thực hơn hết, ít ra cũng thực bằng thân xác và tâm hồn ta nghĩa là đủ thực để tŕ kéo hành giả không tiến lên được. Nói theo “chữ Thời” là phải để hết tâm trí vào hiện tại (ở đây và bây giờ) có vậy mới đốc hành tức trong một lúc chỉ làm một việc. Nếu lúc này lại nhớ đến những truyện đă qua hay nghĩ tới cái chưa tới (tương lai) th́ làm sao mà đốc hành. Đốc hành đ̣i 100% cả ư, t́nh, chí nhưng đây đă để cho dĩ văng chiếm 20-30%, tương lai cũng bằng ấy nữa. Thành ra đầu tư vào hiện tại được có 50% là nhiều. Làm sao đốc hành, không đốc hành làm sao đi tới thành tựu là chí thành để mà như thần. V́ thế các bậc thầy đă nói đi nhắc lại “đạo bất khả ngôn”. Thế nhưng người ta lại nói nhiều về đạo th́ hầu hết là duy thức tức là chơi tượng ư, chứ không có thể nghiệm. V́ một khi thể nghiệm sẽ thấy cơi thần tiên vượt xa ngôn ngữ hạn hẹp trần gian: nói sao được. Vậy cần nói về những điều ăn làm sinh sống thường nhật (hiện tại) như đạo làm người. Điều quan trọng là tư thế thường t́nh thường nghiệm phải bước lên được một bước. Bước lên chỗ kế cận liền với chỗ ḿnh đang đứng. Thí dụ ta đang đứng ở đợt 1 th́ bước sau chỉ là 2 không thể là 4, 5 được. Bước lên 4, 5 là duy thức tức bỏ hiện tại mà chạy rong trong mơ mộng.

Ngăng trở thứ ba là chống lư trí: chủ trương này phát xuất hoặc do người duy trí đă một thời quá thượng tôn lư trí sau thấy lư trí bất lực liền chối tuột giá trị của lư trí; hoặc do những người khởi tu tự t́nh cảm tức Thành minh hay sùng mộ và thấy hăng say ơn ích hơn đi đường lư trí (Minh thành) tránh được những suy luận rắc rối th́ quay ra lên án lư trí cùng với triết học đi kèm. Đây là trở ngại lớn. V́ lư trí là thành tố đầu tiên phải tu luyện vun bồi: nếu không đặt lên đầu như Nho: trí, nhân, dũng, th́ cũng không bỏ được như trong “bi trí dũng” của nhà Phật. Không thể bỏ được v́ nó giữ vai tṛ chỉ hướng, nó ví đựơc như người cầm lái. Thiếu nó thuyền sẽ mất hướng, hoặc đi trật, mở đường cho sự chấp nhận các dị đoan. Lư trí là cơ năng rất quư trong con người, nó chỉ đáng trách khi dùng nguyên có nó gọi là duy trí, nhưng nếu mở vào huệ th́ nó là nền gọi là trí tuệ.

Phải kể vào việc chống lư trí khi bỏ bê việc học hỏi, so đo, phê b́nh, thiếu những điều đó th́ làm sao chọn được con đường hợp cho tŕnh độ ḿnh, làm sao biết những ǵ là trở ngại mà tránh, để khỏi rơi vào bánh xe trước, động một tí phải đi hỏi thầy, đó là ỷ lại. Hỏi thầy hay tin vào thế giá chỉ là bước đầu, đến sau phải tự lập dần, tự ḿnh quyết định phải trái lấy, không được kéo dài đường lối ỷ lại. Kéo dài ỷ lại là không tiến đúng cỡ, không tu tiến về trí.

Đă vậy ngày nay chống lư trí trở nên nguy hiểm v́ tâm trạng con người đi tới chỗ thượng tôn lư trí, càng ngày càng gia tăng số người chỉ chấp thuận đạo pháp nào đó v́ những lư lẽ, những chứng minh hợp lư hợp t́nh có thể cứu xét, chứ không như xưa chấp nhận v́ tin lời người lập pháp hay truyền pháp. Đi theo lối tin đang dần dần trở nên lỗi thời, đó là điều đáng mừng tỏ ra con người có tiến bộ về đàng trí, nên cố giữ lối tin nhiều khi nguy hiểm, v́ đến một lúc nào tự ḿnh nhận thấy hay có người chỉ tỏ cho thấy khiếm khuyết của nhà lập pháp liền bỏ pháp. Như đă xảy ra cho Âu châu thế kỷ 18-19.

Thế mà khoa học ngày nay đă chứng minh rơ là các vị sáng lập ra triết lư, tôn giáo, đạo pháp tuy là những bậc thượng trí siêu việt nhất loài người, nhưng hầu hết các ngài đă không thoát khỏi bầu khí bái vật hoặc ma thuật của đời ḿnh, cũng như chưa bỏ được óc lẫn lộn biểu tượng với sự thực, thần thoại với khoa học. Cho nên c̣n theo đạo pháp hay tôn giáo v́ tin th́ thế nào đến một sức tiến hóa nào đó sẽ bỏ pháp. Đấy là trở ngại. Nhưng nếu đi theo lối lư trí: chấp nhận đạo pháp v́ thấy nó hợp t́nh hợp lư, thí dụ khi thấy tôn giáo ḿnh đương theo hoặc thần tượng ḿnh đang tôn thờ biểu lộ khuyết điểm sẽ không bị xúc động mạnh đến căm thù người, phê b́nh, hoặc bỏ đạo khi thấy đạo ḿnh theo có điều không đúng, v́ đă biết rằng khuyết điểm thuộc bản tính loài người, bản tính của tôn giáo. V́ tất cả c̣n đang trên đường tiến hóa, thiếu khuyết điểm làm sao có tiến hóa. Tu tiến là con đường mê và phá mê bất tận.

Đàng khác con người nay được hưởng nhờ một gia tài khổng lồ của các thế hệ trước để lại gồm vô số điều quư giá cũng như sai lầm. Lên sổ những điều ấy là làm khoa học, là vận dụng lư trí và thu thập và đối chiếu các kinh nghiệm. Đó cũng là một lối tu: tu lư trí, nó sẽ giúp ta biết đích xác hơn những bước phải tránh, những điều phải cố theo. Chính nhờ thế mà trong khắp thế giới hiện nay đang nẩy lên rất nhiều cố gắng tu luyện để đi lên tinh thần. Nhà sử học trứ danh Toynbee đă dám nói nhân loại đang tiến đến một “tân giáo hội hoàn vũ” (New Universal Church). Đây là ơn ích của khoa học, của lư trí khi đi đúng đường, tức trí mở lên được huệ thành ra trí huệ.

4. Định đề và luật tác

Định đề là nền tảng của một nền triết. Triết thành bởi những suy luận ra từ định đề, nghĩa là mọi câu nói, mọi kết luận đều được suy diễn ra từ một số câu nói không thể suy diễn. Đó gọi là định đề v́ giả thiết là cao hơn hết ở chỗ nó không bị suy diễn mà xuất hiện ra như nền tảng mà mọi người theo nền triết lư đó phải tiên thiên chấp nhận, nên tiếng Âu Tây gọi định đề là tiền đề (prémise) hiểu là câu nói được đặt trước mọi sự suy luận để làm nền móng. Triết nào cũng có một số định đề thí dụ Nho là âm dương, tam tài, ngũ hành; là nhân, trí, dũng. Đó là định đề rồi quảng diễn thành ba nguyên lư trong câu: “Đại học chi đạo tại:

Minh minh đức (trí)

Tại thân dân (nhân)

Tại chỉ ư chí thiện (dũng)

Định đề của Phật là bi, trí, dũng. Cũng có ba thành tố như Nho nhưng thứ tự khác nghĩa là chỗ nhân khác nhau. Phật nhấn trên t́nh. Nho nhấn trên ư.

Ngoài định đề và nguyên lư th́ c̣n một vài luật tắc cần chú ư. Có nhiều nhưng trong bài tổng quát này xin chỉ nói đến một luật đó là “t́m phi thường trong những cái thường thường”. Luật này được suy diễn ra từ lương tri hay công cảm (bon sens, common sense). Cái ǵ hợp t́nh hợp lư là đúng. Nói khác cái ǵ ở đâu và bao giờ cũng được coi là quan trọng th́ nên lấy làm tiêu chuẩn. Thí dụ t́nh nước, t́nh nhà, t́nh người ở đâu và bao giờ cũng được quư trọng. Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín cũng vậy. Lâu lâu một vài triết gia hay chủ trương văn học muốn chối bỏ nhưng chỉ xuất hiện như một sự lập dị. Tôn giáo hay Thượng Đế cũng vậy, không đâu không tin vào Thượng Đế nên Thượng Đế cũng thuộc lương tri công cảm, muốn chối đi chỉ là lập dị, và cũng chỉ trong từ ngữ, chứ trong thực tế sẽ phải trở lại cách nọ hoặc cách kia như thí dụ tam vô cộng sản: nói là vô gia đ́nh, vô tổ quốc, vô tôn giáo, mà thực tế vẫn phải trở lại cả ba dưới h́nh thức ngụy tạo nào đó.

Tóm lại những ǵ đă có măi măi, trường tồn với con người th́ ta gọi là lương tri là công cảm. Và ta coi đó như thuộc bản tính con người, hoặc nói theo ngôn từ tôn giáo th́ đó là ngọn đuốc Trời ban cho con người để sống tạm, trong khi chờ đợi phần đóng góp của con người là tôn giáo, triết lư, minh triết. Do vậy vừa phải theo lương tri, phải lấy đó làm tiêu chuẩn, vừa phải cố vượt lương tri đến chỗ cao hơn. Nói khác phải t́m phi thường (cái cao) trong những cái thường thường (bao giờ cũng có). Việt Nho đă ngầm đặt phi thường vào chữ Tâm và cho đi với những cái thường thường là trí, t́nh, chí, thành ra những kiểu nói song trùng là:

Tâm Trí

Tâm T́nh

Tâm Chí

Trí, t́nh, chí là thường thường vẫn phải theo sát nút. Nhưng theo để mà vượt lên Tâm là cái phi thường. Nói là phi thường v́ nói Tâm cho gần gũi chứ tới cùng th́ sẽ thấy phi thường: Tâm sẽ là Đại ngă Tâm linh, là thần linh, là vũ trụ chi Tâm, là vạn vật (vạn vật giai bị ư kỷ) là vũ trụ... Nhưng nói Tâm để theo sát luật “đốc hành” chuyên chú vào hiện tại.

Đó là vài điều cần biết cả về trở ngại, cả về định đề và luật tắc là cốt để gạt bỏ những cái ǵ gây ra việc nửa đường bỏ cuộc (bán đồ nhi phế) là điều trái với thiền. Nho đă đưa ra công thức định, tĩnh, an, lự. Phải sao cho tâm định được, không nhảy từ cái nọ sang cái kia như con vượn, mà chỉ quy vào có một. Định cũng bao hàm Định Trí là một bước hàm tàng triết lư đến độ Minh Triết. Có được như vậy, cả Định Tâm lẫn Định Trí, th́ mới hy vọng đạt được Tĩnh cả Tâm hồn lẫn Tĩnh lư Trí để được An Hành, mà đi măi măi. V́ bản tính con người là tiến hóa chẳng cùng. Thế là với chương hai lư trí ta đă đuợc trang bị bằng một ít ư niệm căn bản về thiền dùng được như dụng cụ để đi vào khảo sát Vô Vi.

III. Tiến tŕnh xuất hiện của vô vi

Tiến tŕnh nọ có thể chia ba giai đoạn:

Giai đoạn I là giai đoạn ông Tư tức ông Đỗ Thuần Hậu (1887-1967). Việc ông Tư đi t́m đạo cũng có nhiều đợt. Đợt đầu học về Địa Tiên biết được nhiều phép màu, nhưng không được thỏa măn nên ông quay ra đi t́m nơi các chùa chiền, nhưng thấy hầu hết không thoát khỏi ṿng mê tín dị đoan, nên ông bỏ sang đợt ba là quay hẳn vào thiền và học với thầy danh tiếng lúc đó là Cao Minh Thiền sư. Cuối cùng cũng không vừa ư, ông trở về nghiên cứu riêng. Nhờ ḷng mộ đạo chí thành nên ơn trên đă chuyển cho ông ngộ được Pháp lư Vô vi (quăng 1945) gồm có phép soi hồn pháp luân thường chuyển và định thần.

Đó phải gọi là hồng ân của Cha Trời ban v́ ông không học được ở thầy nào như phép soi hồn không gặp thấy ở đâu cả trong các phép tu trước, nó ở tại chú ư tới bộ đầu, cố ư mở bộ đầu trước hết, đó là điểm đặc biệt v́ các môn thiền khác thường chú ư tới bộ ba ở huyệt đan điền, nơi có hỏa hầu (kundalini). Chính sự chú ư bộ đầu này giải nghĩa tính cách hiệu nghiệm mau lẹ về điển: chỉ tu chừng dăm ba tháng đă thấy có điển trên đầu (lâu mau tuỳ người).

Pháp luân là phép thở cũng đặc biệt ở chỗ hít vào phồng bụng thở ra hóp bụng lại, lại được chỉ rành rẽ bằng câu: “đầy rốn, đầy ngực, tung lên bộ đầu” thế là hút vào đầy bụng đoạn thở ra liền cái cốt tránh không để hơi xuống miền hỏa hầu. Nhiều phép thở khác th́ hít vào thường bóp bụng, nín hơi rất lâu, thở ra lại phồng bụng. Sự cải tổ trên khiến cho phép Vô vi bỏ đi được tính cách nguy hiểm, v́ thế mà được cho phổ truyền. Các pháp xưa đă bí truyền phần lớn là v́ điểm này, hoặc nhiều người thiền mà không có thở, bỏ uổng một pháp rất ơn ích cho việc tu chứng.

Giai đoạn hai của ông Tám (tức ông Lương Sĩ Hằng sinh năm 1923). Đây gọi được là giai đoạn truyền pháp cũng có vài cải đổi như về soi hồn, ông Tư cho mở mắt và nh́n vào đầu mũi. Ông Tám nghiêm thấy làm như vậy hồn không xuất lên được cao, nên ông kêu nhắm mắt và nh́n vào điểm tam tinh (trung tâm chân mày) quen gọi là huệ nhăn.

Thứ đến về pháp luân ông nhấn mạnh hít vào đầy liền thở ra ngay, không được nín hơi để tránh cho hơi khỏi thấu xuống đợt đan điền có thể gây nguy hiểm như tẩu hỏa nhập ma. Yoga thường nín hơi gấp bốn lần thở. Thí dụ hít 2 giây, nín 8 giây, thở 4 giây.

Cũng về phép thở ông nhận được một lối cách mạng khiến cho Pháp lư Vô vi thêm được một nét đặc sắc nữa đó là phép thở nằm gọi là Pháp luân chiếu minh, do bên trên chuyển cho ông để giúp ông dễ thi hành phép thở ra bóp bụng, hít vào ph́nh bụng mà ông cố làm măi không được. Điều khó khăn này dễ hiểu cho những ai đă tập thở lối xưa là thở ph́nh bụng hít lại hóp bụng, nay có phép chiếu minh th́ nhờ sự nằm nên có thể chú ư trọn vẹn vào việc thở hóp hít ph́nh, một khi quen rồi th́ làm pháp luân thường chuyển không c̣n khó. Ngoài ra ông cũng đưa vào một ít cải đổi khác như thiền vào nửa đêm, ngồi quay về hướng Nam, chú ư đến đỉnh đầu nhiều hơn.

Giai đoạn III là ngôn văn lư đạo hay là những lời phân lư để giải nghĩa rơ về Pháp lư Vô vi như được tŕnh bày trong quyển Chân Lư (1) gồm những lời giải đáp được ơn linh hứng. Sách cũng đưa ra ít điều cải thiện cho hành pháp như việc niệm danh Cha thay cho những lời niệm Phật rườm rà lúc trước. Đó là việc rất ơn ích nó làm cho việc tu luyện được thêm dung dị và nhất là làm cho việc phổ truyền đạo pháp trở nên dễ dàng như chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này sau. Ở đây chỉ nói đến mục tiêu chính của quyển Kinh là phân lư cho ta dễ hiểu tại sao ta phải tu: lời giảng phân minh mà phong phú, lư lẽ xoắn xuưt nhau mà quán triệt, đề tài đặc biệt mà mới lạ... Tất cả làm tỏa ra một vẻ siêu việt dị thường nhằm hợp nhất loài người vào một mối yêu thương. Quyển Kinh đă cặn kẽ phân lư cho biết con người bởi đâu mà ra, sẽ trở lại nguồn cội nhờ có tu luyện, tất cả đem lại cho Vô Vi một địa vị quốc tế có khả năng được phổ biến khắp nơi.

(1) Viết tắt thay cho quyển “Thượng Đế Giảng Chơn Lư” cũng gọi là Bửu Kinh.

Ở hai giai đoạn trước Vô Vi mới xuất hiện như một pháp hành chưa hẳn có “văn ngôn lư đạo”, nhưng tới giai đoạn ba th́ Vô vi đă nghiễm nhiên xuất hiện như một nền pháp lư ưu việt. Cần phải đọc chính Kinh để thưởng thức sự sâu xa phong phú và nhất là cảm giác sung sướng khi đọc một cuốn kinh thâm sâu mà lại bằng tiếng Việt trôi chảy không hề mắc mứu vào những danh từ tiếng Ấn đă xa lạ lại c̣n làm cho kỳ dị lố bịch khi phiên âm qua tiếng Trung Hoa. Ở đây lời lời đều trực chỉ nói ra là hiểu liền, khỏi cần phải giải nghĩa ṿng vo. Đây không thể đi vào chi tiết chỉ xin trích ra hai câu định nghĩa về hai thực thể then chốt là Thượng Đế và con người. Với hai định nghĩa này ta đang bước sâu vào phần lư thuyết rồi đó.

Quan niệm điện tử về Thượng Đế

Theo Bửu Kinh th́ Thượng Đế được định nghĩa là “khối điển quang vô cực vô biên, sinh động mănh liệt. Các cung các cơi từ trược tới thanh, từ nặng tới nhẹ, từ tối tới sáng đều là những tần số điển khác nhau của Người đó thôi. Các cung các cơi này được duy tŕ nuôi nấng, sinh hoạt nhờ nguồn điển lực cung cấp từ trung tâm vũ trụ, có thể nói ở đó phát xuất sinh lực của càn khôn vậy” (câu 59). Đó là một định nghĩa về Thượng Đế vừa tuyệt vời vừa đầy ứ tác động tính bao la man mác như ẵm ôm, ấp ủ lấy mọi người, mọi vật. V́ vật nào người nào cũng được bao quanh bởi bầu không khí mênh mông. Nay th́ ta biết đó không là không khí suông mà trong đó hay chính đó là chất Thượng Đế, nói thông thường là điển (1), khiến bất cứ lúc nào nếu muốn thâu thêm chất Thượng Đế vào trong ḿnh để kết hợp ḥa đồng với Người là ta có thể làm liền và c̣n được khuyến khích làm nhiều lần nữa. Muốn vậy chỉ việc hút thật nhiều và sâu là ta đă vượt ṿng ngoài không khí để đi vào ṿng trong thanh điển.

(1) Tiếng Bắc kêu là điện, v́ Kinh xuất hiện ở miền Nam nên thiết nghĩ cần phải tôn trọng lối phát âm trong Nam. Cũng nói thế về vài chữ khác như trược (trọc), huỳnh đ́nh (hoàng đ́nh)...

Ta biết tất cả những biểu lộ của sự sống là do điển và được tạo thành bởi những rung động vô h́nh, như ánh sáng, sự nóng, thanh âm, sự động... đều là những tác động của điển hết. Cho nên định nghĩa Thượng Đế là khối điển quang hoặc linh quang cũng thế đều là đưa ra một vũ trụ quan động cùng cực, bao la man mác hơn điển trần gian vô cùng và nó sẽ tránh cho ta cái nguy cơ hạn chế Thượng Đế, khi đóng khung Người vào một h́nh thái nhất định nào thí dụ một con người, một ông vua đều là hạn cục. Thượng Đế không hạn hẹp như vậy mà là khối linh quang vô cùng tận, một khối điển mănh liệt vô biên với ngàn triệu tần số cao thấp, bao trùm vạn vật, vật nào cũng được vây bọc bởi khối điển đó tuỳ tần số thanh trọc khác nhau.

Đó là một định nghĩa đem lại cho Pháp lư Vô vi tính cách khoa học thượng thặng tức là khoa vật lư vi thể, một ngành vật lư cao nhất hiện nay. Nhờ có khoa này ta mới cảm nhận được phần nào giá trị của câu định nghĩa Thượng Đế là khối điển quang vô cực vô biên. V́ khoa vật lư vi thể đă phân tích vật chất đến đợt cuối cùng có thể, th́ nhận ra sự vật chỉ là hai luồng điện tử giằng co nhau. Ban đầu khám phá tới nguyên tử tưởng là đă hết, nhưng sau lại nhận ra nguyên tử c̣n là thực thể kép, bên dưới c̣n có vi thể (particles) cực nhỏ gọi là proton, electron, nucleons... cực kỳ nhỏ bé. Nhất là electron c̣n nhỏ hơn nucleon nhẹ nhất 1840 lần, đến nỗi không thể thấy được dù với kính hiển vi điện tử. Chỉ bằng một hạt cát đă chứa đến tỉ, tỉ, tỉ, tỉ vi thể (viết ra sẽ là số 1 với 36 zéro theo sau) nhưng sức mạnh th́ ghê hồn, chỉ một gram đă chứa đến trên mười triệu kilowatt. Chỉ cần bằng một ḥn sỏi đă đủ sức phá một thành lớn nhất... Với những khám phá điên đầu này, chúng ta phải từ bỏ hẳn quan niệm sự vật là bản thể đặc, im ĺm, trái lại tất cả vạn vật đều là điển, và đang quay tít với độ nhanh vượt trí tưởng tượng của loài người. Lúc ấy ta mới hiểu câu “thiên địa vạn vật nhất thể” là ǵ. Thể đó là điển, nó gồm muôn vàn tần số với những làn sóng dài vắn thanh trược khác nhau, có vô cùng đợt dài vắn th́ cũng có vô cùng đợt thanh trược nối tiếp nhau làm nên con đường tiến hóa của con người, của vạn vật, của chính Thượng Đế.

Đó là định nghĩa tiến bộ hơn hết, có sức thống nhất luôn cả vạn vật và đầy hoạt lực tính. Đem ghép nó vào với phép soi hồn, pháp luân, thiền định là ta có một máy sinh điển rất tinh vi. Muốn có điển lúc nào là ta “xay” ra liền. Cho nên Vô vi đáng gọi là tu điển hoặc “điển quang pháp giới” là vậy. Dưới con mắt triết học th́ tiến xa nhất là Việt Nho với câu định nghĩa Thượng Đế là “lư thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng...” Các nhà khoa học đă nhận ra rằng đó là một “sáng thế kư” (cosmogony) vắn gọn nhất mà cũng là cái nh́n khoa học hơn hết. V́ vậy với câu định nghĩa trên Việt Nho vượt trên các triết học khác với sáng thế kư dài tḥng mà lại không theo sát được khoa học. Nhưng đến nay với câu định nghĩa của quyển Chơn Lư th́ Việt Nho phải nhường ghế nhất. V́ tuy đă nói lên được cơ cấu của điển tức Thái cực sinh lưỡng nghi th́ lưỡng nghi kể được như dây âm dây dương, nhưng đời trước chưa biết điển nên không nói lên được chữ Điển, phải dùng tiếng trừu tượng kiểu triết là khí Thái cực. Tuy thua chữ điển nhưng về cơ cấu th́ giá trị vẫn c̣n y nguyên và được Bửu Kinh dùng hoài. Hăy đọc câu sau: “Chơn Lư (tức cũng là Thượng Đế) là cái khối tṛn vô biên, đời đời xoay quanh Nó, luôn luôn tự nh́n Nó, tự sống với Nó, tự học hỏi Nó, tự lo t́m thấy biết Nó đời đời, để đời đời không bao giờ Nó tự đánh mất Nó” (Chơn Lư cuối câu 61). Hăy tạm ghi điều này là có tới 5 chữ tự trong câu trên để sau này sẽ phân tích. Ở đây hăy nói đến Thái Cực Viên Đồ mà câu văn gợi lên quá rơ để gửi vào đó thêm ít chơn lư căn bản.

                                           H́nh cơ cấu thái cực viên đồ

Đó là một khối tṛn chia ra bảy ṿng ta hăy tạm gọi là cung, mỗi cung có nhiều ngăn, ta hăy tạm gọi là cơi, thí dụ cung ngoài cùng là 64 cơi, cung 6 có 32 cơi... càng cao trong các cung càng nhỏ lại, càng ít cơi hơn. Vào đến cung 2 chỉ c̣n 2 cơi, rồi đến cung cuối cùng không c̣n cơi nào nữa, ta gọi đó là “hư linh”, “vô thanh vô xú”. H́nh ảnh này có thể giúp cho ta tạm có vài ư niệm về cuộc tiến hóa của con người, về thời gian và các cơi trên, cũng như về sự biến động mau lẹ khác nhau ở các cung các cơi. Thí dụ đem h́nh thái cực trên kia quay một ṿng th́ cung ngoài cũng phải trải qua một quăng đường dài thí dụ một thước, đang khi cung gần trong cùng chỉ trải qua có một vài phân, cuối cùng chẳng c̣n phân nào cả. Điều đó cho ta một ư niệm về thời gian trên cơi Bồng Lai tiên cảnh rất vắn, chỉ một vài ngày th́ ở cơi trần phải mất cả hàng trăm hàng ngàn năm... Nhưng trong quăng vài phân mà cũng quay một ṿng th́ sự di động trở nên cực kỳ mau lẹ, mau lẹ đến biến mất nên trở thành cực thanh cực tịnh. Do đó ta biết càng quay về nội tâm th́ càng xa động loạn, càng vượt thời gian không gian càng trở nên thanh tịnh, càng gần Chúa tể Càn Khôn hơn. Nhờ vậy ta hiểu được lư do tại sao lại có phép định thần cũng gọi là tâm pháp hay thiền.

Quan niệm điện tử về con người

Bây giờ xem đến con người là điểm then chốt thứ hai sau Thượng Đế. Vậy con người được Bửu Kinh định nghĩa là “tiểu linh quang chiết ra từ Đại khối linh quang để sai xuống thế đặng đóng góp vào cuộc tiến hóa của vũ trụ”. Nói vậy có nghĩa là con người cùng một bản tính như Thượng Đế, cũng làm toàn bằng điển như nơi khác ta đọc được: “Cho nên khi hiểu ra, con người sẽ thấy rằng: Nó thực sự chỉ là điển quang được cấu tạo bằng điển âm và điển dương”. Bản chất điển là năng động, cho nên năng động chính là bản chất con người, y như di động là bản chất của gió thế nào th́ năng động tính là bản chất của người như vậy, ta không thể bít gió trong hộp kín v́ làm thế là cắt mất đi di động tính của gió tức cũng là làm hết gió luôn. Con người cũng vậy không có năng động tính là hết người. Không những động mà c̣n động hơn nhiều y như điển khí di động mănh liệt hơn gió vậy.

Từ quan niệm con người là điển với bản tính là tác năng ta rút ra quan niệm tự tác hành và tự tiến hóa. Bởi v́ cái ǵ có bản tính là động th́ nó phải tự động. V́ động là bản tính của nó, nó không cần nhờ cái chi bên ngoài máy động cả, nếu do cái ǵ ngoài máy động, hay chỉ khơi động th́ động không c̣n là bản tính nó nữa. Chính v́ thế mà triết lư An vi luôn nhấn mạnh đến tính cách tự động, tự tác. Sách Trung Dung nói “tự thành, tự đạo” (câu 25) là theo ư đó. Bốn chữ này lấy từ câu 25: “thành giả tự thành dă, nhi đạo tự đạo dă”. Xin ghi nhớ sự quan trọng của chữ tự này để hiểu tại sao nói tu là tiến mạnh nhất, cao nhất v́ tu là tác động giàu tự động tính nhất (Vô vi quen nói tự tu tự tiến là chính đó). Tu là một việc “người hơn hết” v́ cả tâm hôn lẫn thể xác đều chú trọng vào đấy mới trông làm được, là bởi nó cực khó, có thể nói là khó vô cùng. Trước hết nó đi ngược lại thói thường. Thói thường khi tác động con người vừa có đối tượng vừa có động lực bên ngoài thúc đẩy như là danh hoặc lợi thuộc cơi hồng trần (lợi hành) hoặc do sự ép buộc (cưỡng hành). Đàng này tu là khước từ đối tượng, thay vào đó bằng cái Không. May thay ta biết được cái Không đó đă là phần huyền linh của Thượng Đế, nên là quan niệm đầy an ủi.

Đó là đại để khuôn mặt Vô vi. Khởi đầu xuất hiện như một ngành thiền sùng mộ bậc trung, tức lấy Phật làm cùng đích. Đến khi Kim Thân Cha xuất hiện th́ nâng lên bậc nhất v́ lấy Thượng Đế làm cùng, đồng thời đưa Minh Triết vào đặt cân bằng với sùng mộ chuyển Vô vi từ Thành Minh đi vào hướng Minh Thành, làm cho Vô vi đầy khả năng bước lên hàng các lănh đạo về đạo pháp ở thời mới. Tôi nói đầy khả năng là do sự sắp xếp và hướng dẫn của Cha Trời, nhưng c̣n phải thực hiện là phần con người. Do lẽ đó mà Cha Trời giao cho Tân Dân Nho Giáo lo việc này là v́ Việt Nho đă đi theo con đường tự Minh tới Thành tức từ triết lư tới tu chứng (thành) đang khi hầu hết các đạo pháp đều đi theo lối tự Thành tới Minh tức khởi đầu tu chứng liền, biết đến sau và chỉ là phụ thuộc.(1)

(1) Mấy chữ này khởi sáng từ câu 21 trong Trung Dung: “tự thành minh vị chi tính, tự minh thành vị chi giáo, thành tắc minh hĩ, minh tắc thành hĩ”. Tự Thành tới Minh là tính (tức tính tự nhiên, hiểu là lương tri chứ lư trí con người chưa có phần tham dự vào). Tự Minh tới Thành là giáo tức là giáo hóa, học hành, (tức lư trí con người đă có tham dự vào rồi), tôi gọi đó là triết, triết mà tới minh th́ là Minh Triết tức có sự tham dự của lư trí và thành tựu. C̣n duy lư th́ lư trí có tham dự mà không thành tựu.

Xét về đường tu tiến th́ như nhau, tức cũng thành tựu trong việc tu tiến, nhưng xét về đàng triết lư th́ trong lối tự thành tới minh th́ định ít khi tới tĩnh, nên thường phải có sự đặt lại nền tảng như đă xảy đến cho hầu hết các nền văn hóa đạo pháp. Đấy là do sự khiếm khuyết ở thời xưa, mà đến nay cần vượt qua. Xưa kia triết học hầu hết là duy lư, duy vật, không mấy giúp vào việc tu, v́ thế bị các đạo pháp coi thường và nhiều khi thải bỏ. Nhưng làm thế là lầm: không được thải bỏ triết, mà phải giúp cho nó tiến đến Minh Triết, tức là đưa trí đến huệ thành ra trí huệ. Nếu đạt được trí huệ, nói khác khi triết học đạt Minh Triết th́ sẽ giúp vào việc tu tŕ rất mực, tức giúp cho việc định với tĩnh, để rồi có thể an lự. Việt Nho đă đi lối đó, tuy không trọn hảo, nhưng xét về cơ cấu th́ đă đặt, v́ thế nó đă sửa sai được các đạo pháp tiếp cận với nó, như sẽ được chứng minh bằng lịch sử trong các chương sau.

IV. Cơ cấu với vô vi

 

 

Về cơ cấu th́ những nhà sáng lập cơ cấu nay như Levi Strauss đều công nhận là có một cách nền tảng nơi Nho, ta nói là nơi Việt Nho có cơ cấu bao hàm đối đáp như trong ngoài, trên dưới, chẵn lẻ v.v... nên cơ cấu cùng cực là tất nhiên thành bởi số 2, tôi gọi là nét song trùng, nói theo nghĩa bóng là “sông Tương nước chảy hai ḍng” tức phải có 2 hạn từ mới làm ra được mối Tương quan. Hai hạn từ đó là bất cứ cái ǵ đều nương nhau mà có (mà tương) như trời đất, sáng tối, đực cái, chẵn lẻ, chiêu mục (tức tay chiêu tay mặt) hoặc trên dưới, trong ngoài. Nền tảng chỉ có vậy nhưng biến hóa vô cùng như trong Kinh Dịch (toán điện tử cũng phát xuất từ nền móng nọ: một có một không, một trên một dưới, một chiêu một mục...).

Văn hóa nào xuất hiện cũng có cơ cấu cả, mà biểu lộ rơ nhất là một ít con số uyên nguyên. Nghiên cứu về các con số gốc đó có thể giúp ta biết được đại khái khuôn mặt của một nền văn hóa nhất định. Ở đây chỉ xin nói tới kết quả của hơn ba mươi năm t́m ṭi tôi mới nhận ra số nền tảng của Việt Nho là “vài ba, tham lưỡng” hay 2-3 hoặc 3-2 nó sẽ là ch́a khóa mở tất cả những kho tàng ẩn dấu như sẽ xem sau.

Số 2 (âm dương) tức muôn vật trong trời đất đều thành bởi đối đáp: sáng phải do tối, cao phải do thấp, đất phải do trời, v.v... Tóm lại, phải có hai mới đích là có, v́ có biểu diễn bằng động, chữ nếu chỉ có một là tĩnh chỉ. Triết học duy lư theo nguyên lư đồng nhất A=A: một là một, không có vụ lưỡng tính nhất. V́ thế mà cơ cấu ở nền triết đó không xuất hiện rơ nét như Việt Nho, nơi này đă có số 2 lẫm liệt với các huyền thoại có lưỡng nhất tính. Nhất mà lưỡng nên cũng gọi là lưỡng hợp (dual unit): hai mà một. Đây là bộ số nền tảng hơn cả và mở đầu để có các số 3, 5 sau.

Số 3 (tam tài): Thiên, Địa, Nhân tức là đạt nhân chủ đó: v́ nếu trời là chủ, đất là chủ th́ người cũng là chủ, nhờ là chủ tức phải mạnh mới hội nhập hai thái cực lại được để thành ba, ba Tài. Vậy nên hễ khử trừ số 3 (tiers exclu: triệt tam) th́ không đạt nhân chủ mà bị vật làm chủ v́ không đủ sức nối hai thái cực lại. Nên rơi vào duy nào đó: duy tâm hay duy vật cũng một chiều cả như nhau: đều là ‘chosisme’.

Hai bộ số 2-3 hợp lại thành số 5 của ngũ hành có giá trị vượt bực. Bí quyết nọ nằm trong hành thứ 5 (hành Thổ) đặc biệt đến nỗi đứng riêng một tầng, bốn hành kia ở tầng dưới (hiện tượng) hoặc tầng có, c̣n hành năm ở tầng trên, hay là tầng không, tức vượt không gian và thời gian. V́ có bốn phương, bốn mùa cho bốn hành kia, trật lại hành ngũ không có ǵ: nhưng Không ở đây lại chính là “diệu hữu” nên nói là “hư linh”. Triết nào thiếu ngũ hành th́ duy vật từ trong bản chất, thiếu sự “sang qua sông lớn” tức là đi sang bờ Vô vi đó. Vậy mà hầu hết văn hóa loài người thiếu số 5. Nói đúng hơn th́ số 5 bất kỳ nào th́ đâu cũng có, nó cung cấp do lương tri thường nghiệm mà không do Minh Triết. V́ do Minh Triết th́ nó phải là số 5 nền tảng cho rất nhiều định nghĩa và lược đồ như Hà Đồ Lạc Thư, Trống Đồng v.v... nếu xét ngặt như vậy th́ chỉ thấy trong Việt Nho.

Ba bộ số 2, 3, 5 này đă xuất hiện từ buổi sơ nguyên của nền văn hóa Việt rồi sau Nho công thức hóa thành Kinh Dịch. Kinh Dịch ban đầu không có chữ mà chỉ có hai vạch đứt (- -), liền (–) chồng lên nhau thành quẻ ba vạch, rồi chồng nữa thành quái 6 vạch, sáu vạch nhưng chỉ là dùng có năm vạch. Nói vắn tắt Kinh Dịch ban sơ chỉ là bộ số vài ba (2-3) tham lưỡng (3-2). Về sau người ta mới thêm chữ vào gọi là “hệ từ” nghĩa là “chữ treo” tức là cái ǵ tuỳ phụ treo vào bộ cơ cấu 2, 3, 5 đă có trước.

Từ đấy theo với trào lưu suy thoái chung của mọi thuyết lư th́ Kinh Dịch cũng sa đọa thành sách bói toán, bỏ mất phần đạo lư sâu xa nằm trong số 2, 3, 5 và nằm tê liệt trong các số 8 của 64 quẻ suốt hơn hai ngàn năm, cho đến khi Việt Nho phát giác ra bộ cơ cấu nọ và thấy nó chính là dấu chỉ sự tiến bước tột độ của nền văn hóa Việt Nho. Bởi v́ cơ cấu là sự đúc kết đến cùng cực tất cả tinh hoa của một nền văn hóa rồi chỉ thị tinh hoa đó bằng vài ba con số (gọi là huyền số) với dăm ba tượng h́nh, v.v... cốt để dẫn đến cửa ngơ hành động, v́ muốn hành động nên nói nhiều mà chỉ cần ít dấu hiệu để trỏ phương hướng, v́ thế có những quyển Kinh chỉ dùng có vài ba huyền số với dăm ba tượng h́nh như những quyển Kinh vô tự của Việt Nho (Kinh Dịch, Sách Ước, Gậy Thần...)

1. Sự quan trọng của vị trí trong cơ cấu

Bây giờ xét đến sự sắp đặt vị trí. V́ sự sắp đặt chính là linh hồn của cơ cấu, nó ở tại xếp cái ǵ trên cái ǵ dưới, cái nào trước cái nào sau, bên tả bên hữu, v.v... Đây là luật tối quan trọng của Chữ Thời, nói kiểu thông thường là : một việc mà muốn tốt th́ phải làm ở lúc tốt và nơi tốt “The right thing in the right place and the right time” nếu không th́ tốt cũng ra xấu, đúng cũng ra sai. Xem thế sự sắp đặt quan trọng chừng nào: biết bao cái mới mẻ và công hiệu hơn xưa mà nếu chỉ xét về các bộ phận, các thành phần cấu tạo th́ có thể thấy đă có truớc, nhưng chỉ v́ khác ở lối xếp đặt mà hóa hay hoặc dở. Cũng cùng là số 5 nhưng kép bởi 4-1 th́ khác hẳn kép bởi 2-3.

Nho đă nhấn mạnh điều đó trong câu châm ngôn bao quát (Trung Dung, câu 1): “Thiên địa vị yên, vạn vật dục yên”, “Trời đất có đặt đúng vị th́ vạn vật mới được nuôi dưỡng”. Theo đó phải xếp trời trên đất dưới th́ dân mới được ăn tức được hưởng b́nh sản. C̣n nếu xếp đất ở trên trời ở dưới, tất dân sẽ đói khổ. Dùng chữ ăn với đói (vạn vật dục yên) là có ư cụ thể hóa câu nói mới nghe tưởng như xa xôi không quan trọng mà kỳ thực thiết thân vô cùng, không những đến thân mà cả tâm. Hễ duy một bên là bên kia không được “dục yên”. Duy vật th́ hồn không được dục yên...

Sở dĩ có sự tối quan trọng trong việc xếp đặt này là v́ như đă nói trên: những bộ số trong cơ cấu không chỉ là con số đơn thuần mà là những bộ số phản chiếu những bước tiến quyết liệt đầu tiên của con người trên nấc thang tiến hóa. Bước quan trọng đó liên hệ tới tương quan giữa Thần minh và Con người y như đạo thở và thiền định giúp con người độc lập trong hành pháp thế nào th́ với lư trí cơ cấu, đồ biểu và số độ cũng chơi vai tṛ như vậy. Tức những h́nh thái tṛn vuông và số độ cũng chơi vai tṛ như vậy. Tức những h́nh thái tṛn vuông hoặc số chẵn (số đất), số lẻ (số trời) là những thử thách đầu tiên của lư trí t́m đường cắt nghĩa vũ trụ cách khoa học, không cần đến các thần để chỉ huy từng việc như trong giai đoạn toàn thần.

Thời mà con người kể ḿnh như không, chỉ có thần minh là tất cả, đến độ vật nào cũng có thần hoặc là chính thần: tự đống đá cây cỏ, giếng ăn, cửa ngơ, nhà bếp, đến các con thú vật cái ǵ cũng có một số thần coi giữ. Trong thế giới toàn thần đó con người chỉ c̣n là một vật yếu hèn phải van xin tứ phương. Đó là thời bái vật, một tiếng chung để chỉ nhiều h́nh thức tin tưởng từ vật tổ qua phong nhiêu (thờ ‘phallus’ dương vật...) cho tới ma thuật đủ thứ.

Hệ quả của thời toàn thần bái vật này là Thần chủ, mọi quyền bính nằm trong tay thần minh, con người bị đày đọa cùng cực: nơi th́ cả hàng trăm trẻ con bị giết để làm đẹp ḷng thần, nơi khác giết người lấy máu nuôi mặt trời. Bên Ấn Độ th́ Thần chủ đẻ ra đẳng cấp (caste) chia người trong xă hội theo niềm tin vào thần Brahma: tuỳ sinh ra bởi miệng, tay, bụng, chân mà được làm tăng sĩ, tư bản hay nhà nông, thợ thuyền. C̣n nếu vô phúc không sinh ra từ phần nào của Brahma th́ là vô loài (paria), cực khổ hơn nô lệ bên La Hy (cũng quan niệm thần chủ), không được nh́n vào mặt người tự do (4 loại trên). Muốn qua thành phố phải đi ṿng ra ngoài thành: nếu lỡ bị đất trời bắt được nghe trộm kinh Veda th́ phải chịu đổ ch́ sôi vào tai. Phạm tội th́ phải đền tội bằng tiền của nộp cho tăng lữ... Chồng chết rồi vợ phải lên giàn hỏa, để của cải được sung vào quỹ các tăng. Đó là h́nh thể thái thậm biểu lộ sự chuyên chế của thần quyền, là thứ đă trùm lên khắp nơi với những h́nh thái khác nhau. V́ thế mà con người phải chiến đấu để giũ bỏ những gông cùm nọ.

Hậu quả của cuộc chiến đấu nọ là tiến sang giai đoạn hai là duy lư duy ư nên tôi quen gọi là ư hệ tức hệ thống ư niệm, hoàn toàn duy vật, chối bỏ thần minh nhiều hay ít tuỳ mỗi nơi mỗi thời. Bởi v́ lư trí con người dần dần phát triển mới nhận ra rằng con người cũng có quyền năng nào đó, ít ra trên thân phận ḿnh, c̣n các thần th́ phần nhiều lại chẳng theo lư lẽ, luật pháp nào cả: hầu hết đều có tính bốc đồng và tàn nhẫn, nhiều khi c̣n đủ các nết xấu như con người, rơ nhất là các thần khí tượng như thần sấm, thần sét, thần băo lụt, làm hại con người vô kể, cúng tế rất đàng hoàng rồi mà nhiều thần c̣n đ̣i phải có máu người mới chịu ăn cho.

Ở Trung Hoa ta thấy những việc như tế Hà Bá phải d́m chết những cô gái trinh để xuống làm vợ thần, vậy mà nhiều lần vẫn c̣n lụt chết trôi cả hàng tổng... thành ra ḷng tin tưởng vào thần minh dần dần bị lay động và con người gia tăng việc nghĩ đến tự cứu gỡ ḿnh khỏi sự đàn áp của thần minh. Thần chủ có thể chỉ bằng ṿng tṛn (lấy từ sự xếp đặt các ‘stonehang’ thời cự thạch) và chỉ sự vô biên như trời bao la hay số 3 (số pi). C̣n thời ư hệ th́ chỉ bằng h́nh vuông, số 4, ám chỉ sự công chính theo nghĩa uyên nguyên là sự chí công theo những luật lệ thường hằng chứ không bốc đồng tuỳ hứng, và rất chính trực không thiên vị ai, coi mọi người như nhau nên chỉ bằng 4 phương. Phương nào cũng cách trung ương như nhau, như thấy trong chữ Vạn chữ Văn.

Trên đây là nói về hai h́nh thức thái thậm của hai giai đoạn toàn thần (bái vật) chỉ bằng ṿng tṛn, và duy nhân (ư hệ) chỉ bằng h́nh vuông. Trong thực tế ít có toàn tṛn hay vuông, mà thường gặp những h́nh thái dung ḥa. V́ toàn thần cũng bao hàm một chân lư căn bản rất cần thiết cho con người, bởi nếu vô thần rồi cuối cùng cũng là vô nhân khốn khổ. Và lư trí con người không thể chấp nhận việc không có thần linh: trời cao đất rộng bao la phải có một sức ǵ toàn năng vô đối làm chủ... Cho nên hữu thần có cái lư rất chính thực, nếu xảy ra những điều không ổn như vụ chuyên chế của thần quyền là do sự quá trớn của quan niệm về thần mà thôi. Trái lại ư hệ duy nhân cũng có cái lư của nó là người phải được tự do tự chủ, nhưng sai lầm chỉ v́ chỗ quá trớn là muốn độc lập ngoài quyền thần minh.

Đến đây ta nhận ra sự quan trọng của việc Thái Ḥa, nói vắn tắt theo người là ḥa t́nh với lư, nói theo vũ trụ quan là ḥa đất với trời, nói theo cơ cấu là ḥa tṛn với vuông... Chính sự ước lượng số độ của sự Ḥa trộn này làm nên xương sống của các nền văn hóa, cũng gọi là chân trời hay môi sinh văn hóa. Thế là với hai h́nh tṛn vuông ta nắm được một thứ tiêu điểm khách quan để đi vào rừng các nền văn hóa đặng mà phân loại, nhưng không thể đi vào chi tiết mà chỉ có thể đặt một cái nh́n cai quát lên văn hóa của mấy khu vực lớn. Theo đó có thể chia văn hóa loài người làm ba khu vực là duy tṛn, duy vuông và tṛn vuông ḥa hợp.

Tṛn là Trời (toàn thần) th́ đại biểu có thể là Ấn Độ với biểu hiệu rắn cắn đuôi: chung nhi phục thuỷ. Đất (vuông) không có phần nào vào đó. Các nhà nghiên cứu gọi Ấn Độ là quê hương tôn giáo, quê hương các thần minh. Phật chối bỏ thần Brahma và đề cao con người nên bị đánh bật ra khỏi Ấn Độ.

Vuông th́ đại biểu có thể là Âu Mỹ mà văn minh đă kế tiếp văn hóa Lưỡng Hà (Sumer-Babylon) nơi phát minh ra nền tảng khoa học được đại biểu bằng thiên văn với những định số thường hằng. Chính nơi đây thấy có những kiến trúc thờ tự gọi là ziggurat hoàn toàn vuông. Lối vuông đó truyền sang Ai Cập, rồi La Hy... Tuy đôi khi có tṛn pha vào như thang xoáy ốc hay ‘coupole’, nhưng hoặc v́ ích dụng hay v́ mỹ thuật chứ không đứng vào làm tiêu biểu trời tṛn như thấy rơ bên Việt Nho.

Việt Nho nơi mà tṛn vuông ḥa hợp như thấy trong bánh dầy tṛn bánh chưng vuông, về sau Nho công thức hóa thành câu “thiên viên địa phương” và kiến trúc đền tế thiên bằng nền vuông, nhà mái tṛn, rồi đưa vào cùng khắp như xe vua đi phải là thùng vuông mui tṛn, nho sĩ phải đi giầy vuông đội mũ tṛn... Tóm lại tṛn vuông đi với nhau một cách có chủ đích, chứ không phải là việc cầu âu nghĩa là trúng trật phó cho may rủi hay chỉ là do óc thẩm mỹ định đoạt, mà do một sự suy tư căn bổn để ḥa hợp trời với đất, nói bằng h́nh ảnh là tṛn với vuông, đó gọi là Thái Ḥa.

Thái Ḥa là khi hội nhập được cả cái hay của hai thời là thần minh (h́nh tṛn) lẫn lư trí con người hay khoa học căn cứ trên luật thường hằng (h́nh vuông) để làm nên h́nh tṛn mà vuông, vuông mà vẫn tṛn. Nói cụ thể là vuông khoa học mà vẫn tṛn tôn giáo hay thần minh, và đó là nền tảng nhân chủ: con người vẫn giữ được tự do mặc dầu nhận thần minh. Biểu thị điều đó bằng h́nh tṛn vuông gọi là cơ cấu. Hiểu theo cơ cấu mới thấy câu “thiên viên địa phương” ghi một thành tựu hi hữu trong văn hóa. Nhưng người sau mất ư thức nên căn cứ vào lối hiểu nghĩa đen: trời là tṛn, đất là vuông mà chế nhạo.

Cũng như người ta chế nhạo ngũ hành sắp nói tới, v́ Nho suy vi nên người sau chỉ c̣n biết đến ngũ hành kiểu ma thuật, hoặc dùng để xếp loại sự vật chứ không biết đến ngũ hành như cơ cấu. V́ vậy ở đây tôi thấy cần tŕnh bày lại ngũ hành về phương diện cơ cấu.

2. Cơ cấu ngũ hành

Ngũ hành cũng nói một truyện như câu “thiên viên địa phương” nhưng bằng cách khác: một đàng bằng h́nh tṛn vuông c̣n đây bằng số chẵn số lẻ, số sinh số thành v.v... nó vừa kiện chứng cho tượng h́nh, vừa đào sâu thêm triết lư Thái Ḥa. V́ thế ngũ hành là một thành tựu đẹp nhất trong phạm vi triết học Đông Tây kim cổ không đâu có đến độ nọ, và có thể nói nghiên cứu văn hóa Việt Nho mà chưa nắm được then ngũ hành là chưa tới nơi...

Hai câu này mới nghe qua tưởng như tự đề cao cách lố bịch, v́ trong lịch sử văn minh nhân loại ở đâu mà chẳng có ngũ hành. Đó là cảm tưởng đầu tiên, nhưng khi xét kỹ mới thấy hầu hết chỉ có “tứ tố” (four elements) là nỗi nhất, ngoài ra cũng có ngũ tố nhiều khi cả lục tố, thất tố. Thí dụ thuyết Sankhya mà Phật tiếp nhận th́ nó giống của Empedoche bên Hy Lạp, tức sau nước, lửa, khí, đất th́ có thêm tố thứ 5 là ‘ether’ bao trùm cả tứ tố, nhưng xét cho kỹ sẽ thấy nó cùng bản chất với 4 tố kia, nên số 5 vận chỉ là số 5 mà không là bộ số 5 kép bởi 2-3 như ở Việt Nho. V́ thế số 5 không thắng được số 4 và người ta tiếp tục dùng tứ tố. Đó là một bế tắc trong việc ḥa tṛn với vuông mới nói trên, ở đây huyền số lại kiện chứng điều đo tức tứ tố là một thứ duy (isme): duy vật hay duy tâm, duy nào cũng là một chiều cả. Trái lại bên Việt Nho không là tứ tố mà là ngũ hành. Nói hành là nói đến tính cách biến hóa của ba bộ số 2, 3, 5.

Số 2. Có 2 mới có động, v́ động là đi từ 1 đến 2. Sự di động này làm nên nét hàm hồ nền tảng: có mà không, không mà có. Thiếu nó là văn hóa trở nên bất động như văn hóa nào căn cứ trên số 1 tức nguyên lư đồng nhất A=A. Việt Nho căn cứ trên số 2 mà Kinh Dịch công thức hóa thành câu “âm dương tương thôi nhi sinh biến hóa”. Luật biến hóa là luật thường hằng, bất di bất dịch. Thế là với số 2, ngũ hành đă đáp ứng được nhu cầu căn bản về luật thường hằng nhưng thường hằng về biến hóa. V́ tính chất biến hóa này Việt không nói hai mà nói vài, Nho không nói nhị mà lại nói lưỡng thành ra thuật ngữ “vài ba tham lưỡng”. Kinh Dịch nói “tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số” 3 trời 2 đất, đó là những số cần phải dựa vào (số căn bản).

Số 3. Sau số 2 th́ tới số 3, là số nhân chủ. Sách Trung Dung gọi là tam tài: Thiên, Địa, Nhân đặt người ngang cùng trời đất. Đó là điều táo bạo nên học giả J.Legge phê b́nh sách Trung Dung cho là điên rồ. Đó là ông căn cứ trên nguyên lư triệt tam (tiers exclus = middle excluded). C̣n Việt đề cao số 3 rất mực đến nỗi phương ngôn gọi là Đạo Ba:

Con ơi cố giữ Đạo Ba,

Sau dù có chết cũng là thơm danh.

Danh đây phải hiểu là danh con người Nhân Chủ: tức làm chủ cái tiểu vũ trụ của ḿnh để rồi ḥa với Đại vũ trụ. Muốn vậy phải có cái Tâm bao trùm vũ trụ mà Kinh Dịch gọi là “vũ trụ chi tâm”. Nhờ đó mà tránh được nạn vong thân thường xảy đến cho hầu hết các nền thuyết lư.

Số 5. Bây giờ đến số 5, tức thành bởi 2 và 3, nó là số tâm linh v́ đặt nổi hành thổ là hành hư linh như sẽ nói sau. Bà Nữ Oa được tiếng đă lập ra phép linh phối (hierogamy) tức là tác nhân cuộc phối hiệp này, nên chuyện kể bà nấu đá ngũ hành để vá lại trời, tay cầm thập tự nhai tức thập tự số 4 cánh bằng nhau +. Đó chẳng qua là ngũ hành được cơ cấu hóa. Ta hăy xem qua cách xếp đặt trong cơ cấu đó ra sao

          Thuỷ                                     1                                      Đen

Kim        Thổ      Mộc              4          5         3             Trắng    Vàng   Xanh

               Hỏa                                      2                                       Đỏ

Kim số 4, màu trắng chọi với Mộc, số 3, màu xanh.

Thủy số 1, màu đen, chọi với Hỏa, số 2, màu đỏ.

Thổ ở giữa không có đối kháng, số 5, màu vàng. V́ không đối kháng nên cũng có tên là “hành vô hành, địa vô địa” do sự không có phương riêng và nhất là không có mùa riêng, phải đi mượn mỗi mùa một tuần làm vốn và gọi là tứ quư. Tứ quư liên hệ với nhà Minh Đường và Nguyệt lệnh là thể chế bồi đắp Tâm linh. Tất cả nói lên sự quan trọng hóa ngũ hành v́ đặt căn bản trên nó.

Nếu ta vẽ ngũ hành thành thập tự nhai kép th́ được như h́nh bên... gồm có 5 ô vuông. Rồi ta lấy 4 ô vuông tách rời ra như h́nh sau... th́ ô giữa không c̣n nữa, nên gọi là “hành vô hành, địa vô địa” quá đúng. V́ chỗ vô địa đó mà hành Thổ nhiều lần bị coi là bà con nghèo. Nhưng chính nhờ chỗ vô địa đó mà hành ngũ lại là nền tảng cho tâm linh và làm cho triết Việt Nho trở nên ưu việt, nhờ thiết lập được nền Thái Ḥa: ḥa hiện tượng với siêu linh. Nền Ḥa này sẽ là một thứ tiêu chuẩn chính xác dùng được để đo lường giá trị các nền triết. Triết đạt thân nhiều hay ít là tuỳ nó hợp với ba bước trong ngũ hành đến đâu: số 2 là bước đầu thuộc Vũ trụ quan động giữa Có với Không, giữa thời gian và siêu thời gian. Số 3 đưa ra nền Nhân chủ để cứu gỡ con người khỏi thời gian, khỏi ách thần quyền. Số 5 tâm linh là duy tŕ được siêu linh mà vẫn tôn trọng thần linh, nhờ đă hội nhập được Linh vào ḿnh. Tức nhờ ngũ hành triết đă hiện thực được một cuộc Thái Ḥa giữa Trời với Đất. Lợi cả cho người lẫn thần minh, nên đó là tiêu chuẩn hoàn bị: nó nêu ra những vấn đề đích đáng đúng thực là căn bản, đúng thực là siêu h́nh. Đặt được ba vấn đề trên và thưa đúng sẽ là một nền triết mở đầu cho bốn bước định, tĩnh, an, lự. Nếu đạt ra ngoài ba điểm trên dù có nói đúng nhiều cũng chỉ là những cái đúng thường nghiệm, tức là những sự thực thuộc lư trí lưng chừng, chứ không phải triết, triết là triệt, triệt cùng, triệt để: trải qua hết bôn bước định tĩnh an lự để đi êm trong tiến hóa (evolution). Nếu không sẽ có lúc phải đặt lại vấn đề liên tiếp qua những cuộc cách mạng (revolution) đầy đổ máu. Muốn tiến hóa phải đặt ra những vấn đề căn bản thụôc Vũ trụ, Nhân sinh và Tâm linh như được biểu thị trong ba số tiềm ẩn ở ngũ hành, tức cả thời gian lẫn siêu thời gian, cả hiện tượng lẫn siêu linh.

Đă biết ngũ hành là tiêu chuẩn chính xác như vậy rồi bây giờ ta cũng dùng để phân loại các văn hóa như đă làm với hai h́nh tṛn vuông, và ta sẽ thấy có thể phân ra ba thứ văn hóa, một là của Tây Bắc với số 4, một của Ấn Độ với số 1, và một của Đông Nam với số 2-3. Thế là bằng số ta cũng thấy có sự chênh lệch nghiêng hẳn về một bên ở hai văn hóa số 1 và số 4, không giàn ḥa được đất với trời. Kết quả sẽ là duy vật hoặc duy tâm. Nói khác ngũ hành là giàn ḥa được tự do con người với luật thường hằng của vũ trụ mà bộ số 4 hay 1 không làm được như đă không giàn ḥa được giữa toàn thân với toàn nhân: măi cho tới Kierkergard mà c̣n nói “con người phải chọn ḿnh chống lại Thiên Chúa”. Nếu không quyết liệt (hay quá trớn) đến như vậy th́ cũng chỉ là cưỡng ḥa một thứ ‘modus vivendi’ nghĩa là tạm nhận có đạo Chúa cho xong truyện chứ không sống không hiện thực như đạo dạy, chỉ coi đó là một thể thức tạm dung nhau khi chưa thiết lập được một chủ thuyết An ḥa có hệ thống và hoàn bị đủ sức cứu con người khoải nạn đàn áp chuyên chế của thần quyền, mà đồng thời lại duy tŕ ḷng tôn sùng kính trọng Thượng Đế như ngũ hành đă làm được.

Ngũ hành thành bởi bộ số “vài ba, tham lưỡng”. Số 2 là số đất đă rút nhỏ lại cho đỡ duy vật: từ 4 rút xuống 2, c̣n gọi là vài để chỉ sự biến hóa hầu gảy ra ngoài vũ trụ quan cố định (fixisme). Số 3 Nhân chủ là nhờ con người có nhân chủ tính mới giữ được hai thái cực như trời cao đất thấp. Nhờ đó người có thể và phải giữ vai tṛ chủ nhân ông trong tiểu thiên địa của ḿnh, th́ mới đáng lên bậc là một Tài trong Tam Tài. Trời là vua, đất là vua, th́ rồi người cũng phải là vua. Phải như sách Trung Dung (câu 10) nói “trung lập nhi bất ỷ” là tự lực không được ỷ lại vào đâu. Số 5 là Tâm linh ở tại việc đưa linh thiêng xưa kia vốn ở ngoài con người để đem đặt cả vào ḷng ḿnh gọi là “thiên lư tại nhân tâm”, biến con người thành thần linh “homo homini deus” người là thần linh cho người (chống homo homini lupus: người là chó sói cho người). Đem chữ Lễ vốn dành riêng cho Thượng Đế áp dụng vào cả con người nữa: khi sống cũng như khi chết: sống là hai lễ quan, hôn, chết là hai lễ tang, tế gọi gọn là lễ gia tiên. Thành thử chọn Trời cũng là Con Người, chọn Người cũng là chọn Trời. Bởi thế bên Việt Nho không có vấn đề hữu thần với vô thần.

Được như vậy là nhờ có cả hai quan niệm về Trời: một là Thượng Đế tức Chúa có ngôi vị, hai là Thiên tức Chúa vô ngôi vị, “vô thanh vô xú” dễ dàng thẩm thấu mọi nơi, mọi vật. Đó là một thành công nền tảng gọi là Thái Ḥa hay An Ḥa. Chính quan niệm này giúp cho Việt Nho tránh được những cuộc tranh đấu nền tảng giữa đạo với đời, tôn giáo với khoa học, bà với ông... thường xảy ra nhất là trong các xă hội quá thiên về số 4, h́nh vuông hiện tượng khiến cho triết học là cơ khí, khô khan trừu tượng, không ăn nhập vào đời vào đạo, nên nếu không chống đối ra mặt như vô thần với hữu thần th́ cũng chỉ đi được đến những giải pháp tạm dung để mà sống cách thực tế không ḥa không được, chứ trên phương diện lư thuyết triết lư vẫn chưa t́m ra nền tảng giàn ḥa, nói bóng là chưa lồng được vuông vào tṛn, nên vẫn c̣n đầy mâu thuẫn gây nên tâm trạng lạc hồn: tâm trí như bị chẻ đôi (split personality) tin một đàng làm một nẻo. Cái nguy nhất của văn hóa Tây Âu là đặt nền tảng luân lư trên tôn giáo, mà tôn giáo nay lại hầu không được chấp nhận nữa, nên luận lư cũng lung lay luôn, thành ra tâm hồn con người không biết hướng đến bờ bến nào, con người cảm thấy hụt hẫng, nói bóng là cảm thấy không nhà không cửa (homeless). Người trong xă hội Việt Nho có thể tránh được tai họa ấy là nhờ có ngũ hành. Chẳng may trải qua bao đời không c̣n ai nhận ra giá trị của thuyết đó nữa. May thay nay được Trời ban cho Pháp lư Vô vi là pháp làm sống lại thuyết ngũ hành trên chiều hướng sinh động.

3. Ngũ hành với Vô vi

Sau khi đă biết đại lược về cơ cấu rồi bây giờ ta đi vào Vô vi để xem Vô vi đứng ở chỗ nào trong cơ cấu. Có hai phương diện cần xét: một là bầu khí hai là số độ.

Bầu khí hay môi sinh tinh thần là cái toàn thể của một pháp, một đạo, muốn biết Vô vi có hợp ngũ hành chăng th́ trước hết phải xét cái bầu khí của nó, nếu nó hợp với ngũ hành th́ khi xét tới phần số mới chắc ăn, không sợ làm một việc gán ghép, cưỡng ép. Tinh thần của ngũ hành là Thái Ḥa tức là ḥa được đất với trời, áp dụng vào người là t́nh với lư, áp dụng vào tôn giáo là có nhận Thượng Đế mà con người không mất tự do tự chủ như đă nói trên. Lư tưởng là ḥa hợp được cả hai. Vậy ta thấy Vô vi đă hiện thực được lư tưởng nọ.

Trước hết là Thượng Đế không những được truy nhận mà t́nh yêu thương Thượng Đế c̣n được biểu lộ cách minh nhiên như chưa từng xảy ra trong loài người đó là hiện tượng Kim Thân Cha được điển Thượng Đế chiếu tới và xuất hiện như biểu tượng đấng Cha – là cha mà mẹ luôn – tức tràn ngập t́nh yêu con người, một thứ t́nh yêu thấu nhập đến tận từng tế bào, từng hơi thở, tràn ra vạn vật cho đến cả loài cỏ cây, kim khí, đến từng nguyên tử không một hột nhỏ điện tử nào không được ấp ủ trong mối t́nh man mác của Cha Trời.

Đàng khác đọc quyển Chơn Lư ta sẽ thấy con người được đưa lên cao cùng tột không thể cao hơn được nữa, vậy mà vẫn không cần chối Chúa, lại c̣n nhận Chúa như Đấng Cha Lành. Quả có sự ḥa hợp cùng tột bao gồm mọi ḥa hợp khác như giữa đạo với đời, tôn giáo với triết lư v.v... Như vậy là yên ḷng về bầu khí vô vi quả là bầu khí Thái Ḥa, nên có thể yên trí bàn về các số.

Hỏi Vô vi có theo bộ số 2-3 chăng? Có chứ, coi tác động soi hồn kia chả thấy 5 ngón tay giơ lên 3, ngón bịt mắt, tai, tinh, c̣n 2 ngón thả lỏng là ǵ. Đó là dấu chỉ tam bửu: tinh, khí, thần và 2 mạch nhâm đốc. Nhâm là mạch âm đi từ vùng rốn lên đến môi dưới, đốc là mạch dương khởi từ thận xuyên qua xương sống, ṿng lên đầu rồi qua trán, mũi tới môi trên, nay ngậm miệng răng kề răng là có ư cho hai mạch đó thông giao với nhau đặng cho hai luồng điện âm dương nối kết. Đó quả là một cách hiện thực ngũ hành vào thân tâm vậy. Về số 3 trên là tinh, khí, thần th́ cũng như tam tài thiên, địa, nhân. Địa là tinh, Nhân là khí, Thiên là thần, cả ba tụ nơi tam tinh (trung tâm giữa hai lông mày) Nho gia gọi đó là “tam gia tương kiến” ba nhà xem thấy nhau. Đạo giáo căn cứ vào đó lập ra Đan Đạo là phép luyện thuốc trường sinh: gọi huyệt tam tinh là “ḷ lửa của lư hương” được biểu thị bằng những b́nh đèn hoặc cái đỉnh tất cả đều có 3 chân 2 tai. Những cái đó đều là biểu tượng để đốc ra dị đoan hướng ra ngoài như vụ Cát Hồng Tiên Ông đ̣i xuống tận Việt Nam để lập ḷ luyện thuốc kim đan, mà không ngờ rằng ḷ ấy ở ngay trong ḿnh. Sự không ngờ đó gọi là vong thân cầu ngoại. Vô vi đă tránh được điều đó bằng đặt số 3 vào tinh, khí, thần đem khí (chí khí) để luyện tinh cho ra thần. Luyện bằng cách nào? Thưa bằng cách soi hồn. Thiệt là cụ thể cùng cực không thể đọa ra dị đoan kiểu luyện thuốc trường sinh hay kim đan được nữa. Luyện đây là luyện cho điển trược trở nên điển thanh gọi là khử trược lưu thanh. Khử trược là khử trân cấu: phải bịt lỗ tai để từ khước thính, bịt mắt để từ sắc, bịt màng tang để hướng dẫn tinh, bắt tất cả phải đi vào “lư hương” của tam tinh để phanh luyện cho hết chất hữu vi trần trược. V́ thế lúc tu không được xem, nghe, nghĩ đến hữu vi mà phải đi vào cơi thanh của Vô vi để đạt đợt “vô thanh vô xú”...

Soi hồn xong th́ đến Pháp luân thường chuyển, nói theo cơ cấu là sau 3 th́ đến 2, 2 đây là hít vào thở ra, hít khí thanh của trời đất vào rồi thở khí trược của thân xác ra, như vậy là tiếp tế điển thanh cho hồn. Nhờ răng kề răng nên hai mạch nhâm đốc nối liền chuyên chở khí thanh đi khắp nơi để lọc rửa ngũ tạng cho khỏi trược khí, để rước thanh điển vào. Khi thở cũng ngầm có số 3 ở trong: 1 là hít vào đầy rốn, 2 là đầy ngực, 3 là tung lên bộ đầu. Đó là ngầm hiện thực ngũ hành. Phương ngôn tu tŕ quen nói “ngũ khí triều nguyên, tam huê tụ đỉnh” là chỉ về đó.

Đến việc thiền định th́ quả là quy vào trung cung hành Thổ. Hai chữ định thần ghép lại thành ra thiền, nói thiền hay nói định cũng như nhau. Khi nhà Phật nói “giới, định, huệ” th́ định ở đây có nghĩa là thiền, cả hai chữ có nghĩa là tập trung tâm trí đến cùng cực. Đó là bí quyết thành tựu của các thiên tài.

Tại sao vậy? Trong quyển Sứ Điệp tôi đă phân tích và tŕnh bày ư nghĩa của ṿng đồng tâm trên mặt Trống Đồng mà tôi gọi là luật “Chí Trung Ḥa”. Đó là luật của phẩm, nó ở tại hướng tiến ngược chiều với lượng: ở lượng càng to càng tốt, ngược lại ở phẩm, ở thần th́ càng nhỏ càng hay, nhỏ đến cùng cực không c̣n thấy chi nữa th́ quư vô cùng, v́ đây là đạt chân không mà “chân không th́ sẽ có diệu hữu”. Do lẽ đó sau khi đă hít vào nhiều điển thanh rồi th́ phải ép điển đó lại như gói gị, ép sao cho bé không c̣n bé được nữa mới thôi. Ép đây là thiền. V́ thế lúc thiền tất nhiên phải bỏ hết thế sự bên ngoài để quay vào trong: không cho một ư nghĩ hay cả âm thanh sắc tướng lọt vào, cố riết cho đến độ trống trơn không c̣n động loạn trong tâm trí th́ mới đạt cái “hư tâm” cũng gọi là “hư linh”. Hư là trống không nhưng lại linh vô cùng, thành công nhiều hay ít là tuỳ tập trung tư tưởng được nhiều hay ít. Đó là điều rất khó. Tâm viên ư mă là vậy.

Ai đă thử mới biết, chỉ mới định độ 15 phút đă thấy chia trí đến cả trăm lần, ngă ḷng quá hễ nghĩ đến giờ thiên là run cả người lên. Nhưng may thay đây là chỗ lợi hại của Vô vi v́ tập không bao lâu bạn đă thấy chút hiệu quả có thể sờ ngay thấy. Thí dụ vài tuần đă thấy sức khỏe cải thiện, tu vài tháng th́ thấy tê tê trên đỉnh đầu, lâu lâu như có ai giật tóc, đó là điển giật đấy. Lâu lâu lại thấy được mấy hạt điển sáng lóa, người xưa gọi là hà sa, nó bay lơ lửng một chút rồi biến mất để lại xuất hiện nữa. Thế là hành giả được khuyến khích rất mực, nhiều người c̣n mong tới giờ thiền nữa, chân cũng bớt tê đi trông thấy. Thế là cứ vậy mà tiến. Đó quả là hiện thực thể chế nhà Minh Đường đặt căn để trên ngũ hành để phanh luyện chất siêu linh trong con người vậy.

Tóm lại Vô vi đă áp dụng ngũ hành cách trọn vẹn không những về bộ số mà c̣n cả vị trí các số: tṛn trên vuông dưới, như bánh dầy đặt trên bánh chưng bằng cách đặc biệt là chú ư trước hết tới bộ đầu, mở bộ đầu bằng phép soi hồn. Đây quả là một cuộc cách mạng khác lạ nhưng vẫn hợp tinh thần Việt Nho khiến suy tới đó tôi bất giác reo lên một lời mừng:

A ha! Mẹ tôi bắt chạch đàng đầu,

Người ta tham giàu bắt chạch đàng đuôi.”

Câu “đầu xuôi đuôi lọt” ở đây mang ư nghĩa thâm sâu cả về pháp tu luyện nói lên đường lối đặc biệt của đạo Việt chú ư đến bộ đầu như sẽ nói sau. Nay được Vô vi hiện thực cách bất ngờ và thú vị với phép soi hồn, nhờ vậy mà đuôi lọt là thể hiện được dễ dàng tinh thần Việt Nho là tự cường tự lực.

Vô vi đă hiện thực điều đó đến cao độ biểu lộ bằng cách không chấp nhận một thứ trung gian nào: không Phật, không Pháp và nhất là không Tăng, không cả tổ chức, không chùa chiền, miếu mạo tức là cất hết mọi đầu mối có thể đàn áp con người.

Điều làm tôi quư trọng Vô vi là tinh thần nhân chủ cao độ nọ, cao đến độ không để ai có thể lợi dụng, có tổ chức đâu mà lợi dụng. Thượng Đế xuất hiện trong Vô vi như chữ Thái Ḥa hiện thân: vừa Hữu vi nhưng vẫn Vô vi tức tuy có cái biết của tiểu ngă mà vẫn có cái biết của Đại ngă và Vô ngă nên vẫn có luật tắc thường hằng không ai hay vật nào thoát khỏi: đó là luật tiến hóa được đề cao như linh hồn của tất cả. Nói kiểu khác luật tiến hóa là một sự thiết yếu không vật nào trên trời dưới đất thoát khỏi, vậy mà vẫn giàn ḥa được với tự do con người: con người theo Vô vi đă không bị đàn áp như nói trên (không bị vong thân v́ thần) mà c̣n được đưa lên bậc nhân chủ cao nhất không thể cao hơn được nữa v́ được tuyên dương là ánh linh quang của Thượng Đế. Thật cao cả huyền diệu y như Việt Nho là tinh thần Thái Ḥa trong tam tài: Thiên Địa Nhân. Đó là hậu quả tận cùng của Ngũ hành: cộng 2 với 3 thành 5 nghĩa là khi Trời (số 3) hợp với Đất (số 2) th́ con người Tâm linh (số 5) sẽ được tôn trọng. Vô vi đă hiện thực đúng điều đó.(1)

(1) Bài thơ sau đúng tinh thần Vô vi rất đáng được nhiều người thưởng thức, xin ghi lại đây:

               CHÙA VÔ VI

Chùa tôi, không cột, không kèo.

Không lợp mái ngói, không treo chuông đồng.

Bên trong đèn nến cũng không,

Không hoa, không quả, cũng không ông thầy.

Tụng kinh “không chữ” mới hay,

Không tô tượng Phật, không xây bồ đoàn.

Cũng không có mái tam quan,

Không treo bảo cái, tràng phan, Phật kỳ.

Không xây ngọn tháp uy nghi.

Không chuông, không mơ, vậy th́ chùa đâu?

Chùa ngay trên chính đỉnh đầu,

Chùa trong tâm thức nhiệm màu đâu xa.

Chùa trong thường niệm danh Cha (a)

Chùa trong trí huệ, sáng ḷa đi lên.

Noi gương chư Phật, Thánh, Tiên,

Cô công tu luyện, quy nguyên cội nguồn.

19/11/1982

Diệu Nhung

(a) Chính bản văn là “Chùa trong lục tự Di Đà”, xin được sửa lại như trên.

V. Lốt chân đạo nội

1. Những ấn tích lâu đời nhất của Đạo Nội

Đạo Nội nói ở đây chính là Việt Đạo, cũng có thể gọi là đạo Tiên Rồng, đạo Trống, đạo tu Tiên... đây có thể là phần tâm truyền, hay phần nội, c̣n phần ngoại hay phổ truyền là đạo gia tiên, đạo thờ quốc tổ và lễ tế thiên địa. Cả hai phần nội cũng như ngoại đều có chung một số điển chương và huyền tích như Lạc Thư có thể gọi là Thánh Kinh của Việt Đạo. Tiếp tới là truyền thuyết hay là bộ nhân thoại trong Kinh Hùng. Rồi tới điển chương là Trống Đồng Ngọc Lữ, cũng như huyền số là “vài ba” biến ra ngũ hành rồi Cửu lạc v.v... Tuy nhiên v́ Đạo đă thất truyền nên những điển chương vừa nhắc đến không nói lên được cái nội dung của một đạo pháp, mà chỉ c̣n là những ấn tích lu mờ, v́ thế bao thế kỷ qua Việt Nam vẫn bị coi như không có tôn giáo hay đạo pháp nào, kỳ thực th́ ngay tự ngày khai quốc Việt tộc đă có một đạo pháp siêu đẳng đến nỗi nói Việt Đạo không c̣n nghĩa là đạo của Việt tộc cho bằng là đạo pháp siêu việt.

Sau hơn ba mươi năm nghiên cứu văn hóa Việt chúng tôi nghĩ đă khám phá ra phần ngoại vương của đạo đó mà tôi gọi là triết lư An vi. Đến nay gặp thêm Pháp lư Vô vi th́ tôi tin nó phản chiếu đúng cái phần nội thánh của Việt Đạo, bởi v́ Vô vi chiếu ánh sáng cụ thể vào các biểu tượng và huyền số của Việt Đạo làm cho dễ nhận ra những ấn tích đó chính là lốt chân của Đạo Nội. Đây quả là một sự nhận diện đầy hứng khởi, xin được tŕnh bày tóm lược trong bài này.

Chương trên đă cho thấy Pháp lư Vô vi đi theo bộ cơ cấu vài ba tức ngũ hành, vậy ở đây ta hăy t́m xem bộ số đó xuất hiện từ lúc nào, v́ nó là biểu hiệu chỉ trỏ sự hiện thực của một đạo pháp ưu việt, nó ghi lại những bước tiến vĩ đại của con người trên đường tiến hóa, nên nói về sự xuất hiện của nó cũng là nói về Đạo Nội, nói về triết lư An vi và Việt Nho, cả ba đều lấy bộ số 2-3 làm nền tảng. Hiểu được bộ số đó là nắm được then chốt của An vi, của Việt Nho cũng như của Đạo Nội.

Con số 2 (vài, lưỡng) nói lên vũ trụ quan động, văn hóa nào không có nó tất bị sa vào sự bất động im ĺm. Vậy bộ số này người ta đă thấy dấu vết măi từ đời đá mới Bắc Sơn trong hai vạch song song tạc trên các ḥn sỏi được mài nhẵn. V́ môi sinh tinh thần của nó là lưỡng hợp tính (dual-unit) mà các nhà khảo cổ gọi là nét đặc trưng của Đông Nam Á, bởi các truyền thuyết trong vùng đều mang tính chất lưỡng nhất như Tiên Rồng, bà Nữ Oa ông Tứ tượng... nên ta có thể gán cho hai vạch đó vai tṛ biểu thị số 2 nền tảng này và xin ghi lại ấn tích này bằng h́nh 2 chim và 2 rắn (nhất điểu nh́ xà) chỉ tiên rồng, t́m thấy trên Muờng hoặc hai giao long đang vờn nhau t́m thấy ở Đông Sơn.

Số 3 là bộ số của con người, số nhân chủ mà huyền thoại mở đầu cách chói chang là truyện ông Bàn Cổ, nói lên nét tự cường tự lực hết cỡ, đến nỗi ngay sự xuất hiện cũng tự ḿnh trọn vẹn. Hai việc lớn hơn hết của ông là phân ra âm dương (số 2) và tiến hóa (số 3): sách nói một ngày ông biến đổi 9 lần (3*3=9). Khi ông khóc hai hàng nước mắt chảy ra làm nên hai ḍng sông Hoàng Hà và Dương Tử; hơi ông thành ra gió. Cái nh́n của ông làm ra sấm chớp. Khi ông chết xác rữ ra làm thành năm (số 5) dăy núi trong thiên hạ... Đó là lối kể của huyền thoại để nói lên con người là tiểu vũ trụ rồi sẽ tiến hóa đến chỗ trở nên “vũ trụ chi tâm”, v.v... tức là nói lên tính cách nhân chủ triệt cùng, nên tôi gọi những huyền thoại này là nhân thoại tức vai chủ động là con người (thần thoại th́ thần làm chủ). 15 truyện trong Kinh Hùng đều là nhân thoại v́ các nhân vật chính trong đó đều làm những chuyện có tầm vóc vũ trụ như truyện bánh dầy bánh chưng là nối trời với đất. Con số 3 này xuất hiện trong các h́nh tam giác mà ta gặp thấy lu bù trên mặt trống đồng và b́nh động hoặc gốm có 3 chân.

Số 5 là ngũ hành th́ phải hiểu là bộ số cơ cấu, tức là kép bởi 2 và 3, nói nôm na là “vài ba”, chữ Kinh Dịch là “tham lưỡng”. Tự trước tới nay người ta cứ tưởng ngũ hành là của Tàu và có đă từ lâu đời lắm. Nhưng gần đây cổ sử và khoa khảo cổ khám phá ra rằng ngũ hành mới xuất hiền bên Tàu vào đời Chiến Quốc ở nước Yên và Tề vào quăng 350-270 tr.c.n. Vai tṛ nổi nhất phải quy cho Châu Diễn với thuyết Ngũ đế đức. Người ta cũng gặp ngũ hành trong vài ba sách cổ khác như Kinh Thư, nhưng hầu hết học giả ngày nay cho phần đó mới được giặm vào sau v́ thế không thay đổi được niềm tin rằng ngũ hành mới có tự quăng thế kỷ thứ IV tr.c.n. Nhưng có một điều cần lưu ư là khi ngũ hành xuất hiện trong sách vở th́ nó đă thấy được phổ biến sâu rộng trong dân chúng với thứ tự quen thuộc là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, chứ không phải thuỷ, hỏa, mộc, kim, thổ có sau và là của của bác học (của Kinh Thư). Ông Needham gọi thứ tự trên kia là của dân chúng là “mới” th́ sai, phải gọi là “cổ” mới đúng v́ nó có lâu trước.

Lâu trước tới đâu th́ không biết, nhưng khảo cổ có cho ta những ấn tích ít ra ba mươi thế kỷ trước công nguyên như thấy trong vụ 5 ḥn sỏi t́m được trong một ngôi mộ ở Phùng Nguyên thấy 2 ḥn thô, 3 ḥn mài nhẵn. Di chỉ Long Sơn ở Bắc Tàu có cái lịch thời danh với 3 chân rồng và 2 tai, lại c̣n các b́nh đèn t́m thấy Đông Sơn cũng có 3 chân 2 tai. Ta biết rơ 2 tai chỉ là biểu tượng v́ có cả trong những đồ nhỏ như cái giả không cần tai để xách, hoặc to như cái đỉnh th́ 2 tai cũng chẳng dùng vào việc mang xách được. Vậy đă tỏ nó chỉ là biểu tượng. Lúc ấy ta mới hiểu h́nh xếp trong cán qua t́m được cả ở Hà Nam và Tây Sơn Bắc Việt (mà người ta đoán thuộc nhà Thương Ân) và h́nh một thứ phủ việt t́m được ở Đông Sơn cũng trên 2 (hai giao long) dưới 3 (ba người hoặc ba con vật) tất cả đều diễn tả bộ số ngũ hành là “vài ba tham lưỡng”, nên ta biết bộ số này xuất hiện đă lâu lắm. Ở Bắc Sơn là quăng –5000 năm, c̣n Long Sơn và Phùng Nguyên lối –3000 năm. Nhưng đó chỉ là những mảnh vụn mà ta may mắn gặp được chứ không phải là một lâu đài đầy đủ. Nếu gặp đủ chắc chắn chứng từ sẽ chói chang hơn nhiều.

2. Thuyền t́nh bể ái

Nếu nói về lâu đài đầy đủ phần nào th́ phải đi đến Trống Đồng (đầu thiên niên kỷ tr.c.n, quăng thế kỷ 7-9). Đó là bản tóm trác việt về Đạo Nội, gồm đầy đủ bộ số 2-3-5 mà nổi bật nhất là số 2 chỉ lưỡng nhất tính. Huyền thoại nói rằng bà Nữ Oa lập ra phép linh phối (hierogamy) trong khi sách Trung Dung rằng: “quân tử chi đạo tạo đoan hồ phu phụ” = đạo quân tử khởi đầu từ việc vợ chồng. Những dữ kiện hợp nhau trên giúp ta thấy tính chất của Đạo Việt là nó khởi đầu từ việc vợ chồng, có nghĩa là không khởi đầu tự đạo trời hay đạo đất nhưng từ đạo người, mà cụ thể hơn cả là vợ chồng. Có vợ chồng rồi mới có con cái, có cha mẹ, rồi mới có vua tôi... V́ thế Kinh Hùng mở đầu bằng những cuộc phối hợp có tính cách linh tượng như giữa Đế Minh với Vụ Tiên, giữa Lạc Long Quân với Âu Cơ... Tiếp theo tinh thần đó xin dùng ánh sáng Vô vi để thử t́m hiểu con thuyền t́nh bể ái trong Trống Đồng.

Thuyền t́nh là thuyền đă biến ra thể rồng, một thứ rồng tràn ngập t́nh tự và đang há miệng để nhận lấy cái hôn nồng cháy của chim âu đưa măi vào tận cổ họng. C̣n nói bể ái là v́ thuyền đang bơi trong nước nên nói là bể để chỉ mối t́nh ân ái mênh mông như biển cả. Thuyền t́nh bể ái đó là ai? Ai mà cả gan làm t́nh một cách lộ liễu như vậy, phải ch́a mặt ra coi. Câu hỏi có vẻ diệu vợi nhưng may thay nhờ vào huyền sử ta t́m ra câu đáp. Đó là “Lạc Long Quân gặp Âu Cơ trên cánh đồng Tuơng” (Kinh Hùng số 5). V́ đây là phạm vi huyền sử th́ mọi chữ cũng như mọi cử chỉ đều hàm tàng nhiều ư nghĩa cần phải cân nhắc cẩn trọng.

Trước hết hăy nói về cặp đôi “Tiên Mẫu Long Phụ”. Đó là hai vật biểu của nước ta. Có lẽ Việt là nước duy nhất nhận hai vật biểu đi đôi chứ các nước chỉ có một, rồng của Tàu, voi của Ấn, gà của Pháp, chim ưng của Mỹ... Riêng Việt nhận cả tiên lẫn rồng tức là con số 2 nền tảng của cơ cấu đó. Hai vật biểu lại ở đối cực: chim bay trên trời rồng lặn dưới biển, vậy mà gặp nhau được mới tài. Tiên mẫu được đại diện bằng chim nước: như Âu Cơ tức là hải âu, Hồng Bàng là một thứ ngỗng trời gọi là chim hồng hộc, Vụ Tiên là vịt trời, Lộ (Bàn) là c̣ trắng... Cần chú ư hai điểm: một là chim nước, hai là bay cao. Bay cao được bày tỏ rơ nhất trong chim hồng cũng gọi là thiên nga hàm ư bay thật cao để chỉ Trời. C̣n rồng chỉ đất nên ở tận thuỷ phủ. Trời đất tuy xa cách nhưng phải gặp nhau th́ mới sinh ra được con người Hùng Vương, như ta xem thấy đứng lố nhố trên lưng thuyền rồng.

Bạn sẽ hỏi sao mà chóng thế, ông bà chưa ái ân xong mà đă con đàn cháu đống đứng đầy trên thuyền và hơn thế nữa tất cả đều đă khôn lớn, đă biết ca vũ tưng bừng là cái nghĩa chi vậy? Thưa có sự tréo cẳng ngỗng như vậy là v́ đây là truyện cơi tiên th́ nó theo luật nghịch chiều “đẻ trước dục sau”. Ở cơi trần giao cấu trước rồi có thai sau, trên cơi tiên trái lại có thai trước rồi mới giao cấu sau. Ai đă tu Vô vi cũng nghe biết phải tu đến tŕnh độ cao cho tới khi tiến tới cơi tiên thiên th́ hồn mới gặp lại vía như cô vợ lư tưởng mà cuộc động pḥng nghe nói c̣n cực lạc gấp ngàn lần những cuộc dục ở trần gian, phải nói là ngụp lặn trong biển phúc lạc, nên quyển Chơn Lư gọi tu chính là dục, v́ cuối cùng cũng có giao hoan rồi cũng có thai y hệt dục ở cơi trần. Có điều ở trần th́ dục trược nên miếng hoan lạc vừa nhô ra đă bị kẹp giữa hai tấm bánh đắng cay. Nietzsche bảo cái thú chơi gái đầy nguy hiểm là vậy. C̣n dục trên cơi tiên là dục thanh, thai nghén trước rồi mới dục sau. Cho nên Âu Cơ Nghi Mẫu đẻ ra cái bọc trứng trước (Mô-ni-châu hay quả cầu sáng?) rồi có con sau, cuối cùng mới gặp Lạc Long Quân trên cánh đồng Tương. Cánh đồng Tương là Bồng Lai tiên cảnh, đó là tiền đường của cuộc phối thiên. V́ sự nghịch chiều này nên cái thuyền tính trong Trống Đồng chính là phác họa lại cái dục thanh của mẹ Tiên cha Rồng. Đó là hậu quả của Đạo Nội cũng gọi là Đạo tu tiên. Cho nên huyền sử nước Việt tràn đầy Tiên là do lẽ đó.

Như vậy chim thiên nga chỉ Trời, Lạc Long Quân ở thuỷ tề chỉ Đất, c̣n giao cấu đổi thành Giao chỉ cho bớt tính cách ‘sexy’ nhưng khi vẽ ra h́nh th́ dùng thuyền t́nh bể ái. Đó chính là con thuyền bát nhă đưa người từ bến mê sang bến giác. Kinh Dịch chỉ việc đó bằng câu “thiệp đại xuyên” = lội qua sông lớn. Mỗi tên nói lên một khía cạnh. Bát nhă nói lên sự thức giác, Dịch Kinh nói lên sự lội qua sống là biến đổi tâm thức, c̣n Việt gọi đó là thuyền t́nh bể ái, mỗi tên có một cái hay. Cái hay của Kinh Dịch đ̣i phải giàu trí nhớ để nối vào cuộc “đạp thanh” tức giao cấu trên nền cỏ xanh xảy ra sau khi lội qua sông trong cuộc hát trống quân xa xưa. Như vậy tuy có hấp dẫn nhưng nói bóng gió không trực chỉ bằng tên thuyền t́nh bể ái, lại có h́nh nữa, sức lôi kéo có thể mạnh hơn cả “con thuyền bến Ngự” nên đầy khả năng hấp dẫn, có thể kéo cả những ông râu xồm vào tu lúc nào không hay: cũng soi hồn và pháp luân như ai chứ bộ. Hoan hô các ông hết ḿnh, chỉ xin dặn nhỏ rằng trên thiên tiên tuyệt đối không có cái vụ “tiền trảm hậu tấu” như dưới cơi trần: đừng có nóng mà đâm ra vọng động. Phải kiên tŕ, đó mới là học chữ Dũng. Nhớ câu Nho “tŕ kỳ chí, bất bạo kỳ khí”: phải bền chí chớ phung phí khí. Dũng tại kỳ trung hỹ.

3. Trống Đồng canh đă điểm ba

Hỏi tại sáo lại tạc h́nh thuyền t́nh bể ái trong Trống Đồng? Thưa v́ mối liên hệ giữa hai đàng rất mật thiết. Huyền sử kể rằng “ở Hội Kế kinh đô U Việt có trao một cái trống lớn khi nào con bạch hạc bay qua chạm vào th́ trống kêu vang rền, tiếng vang tới măi Lạc Dương”. Bạch Hạc là biểu hiệu của người tu tiên đắc đạo gọi là vũ hóa (nghĩa là hóa ra có lông cánh như chim). Mẹ Âu Cơ ở Bạch Hạc phải hiểu là tu đă đạt độ vũ hóa. Tu đắc đạo th́ đánh trống mới đúng cách, mà đánh có đúng cách th́ tiếng mới vang tới Lạc Dương. Lạc Dương là kinh đô Trung quốc cũng xưng ḿnh là thiên hạ, nên nói tiếng trống vang tới Lạc Dương là nói vang khắp thiên hạ. Tại sao tiếng trống lại lan rộng như vậy? Thưa là v́ sức hội nhập của nó vô cùng. Kinh Lễ nói: “Cổ vô đương ư ngũ hành, ngũ thanh bất đắc bất ḥa” = Trống không tương ứng với ngũ thanh, nhưng ngũ thanh mà không được Trống th́ không thể hiện thực được cuộc Ḥa. Ngũ thanh là âm nhạc, mà âm nhạc có tiếng là nữ hoàng của các nghệ thuật v́ khả năng ḥa hợp của nhạc cực cao, người ta hay nói về nhạc là ḥa âm, ḥa nhạc, vậy mà Kinh Lễ nói thiếu Trống cũng đành bó tay không hiện thực được cuộc ḥa là có ư nói về cuộc Thái Ḥa: ḥa hiện tượng với siêu linh, là v́ thanh là đợt vi tế cuối cùng của cơi hiện tượng, nhưng cũng c̣n là có: có vi, có tế, vẫn c̣n là Hữu vi chưa thể làm chủ cuộc Thái Ḥa nên phải nhờ đến Vô vi hàm tàng trong cái Trống mới hiện thực được. V́ thế mà có câu phương ngôn “ba hồi trống thu không”.

Để hiểu được câu này cách thấu triệt lại phải dùng đến cơ cấu bằng ôn lại cách xếp đặt ngũ hành theo hai ṿng sinh khắc như h́nh kèm theo...

Hai ṿng xoay ngược chiều nhau để chỉ tác động và phản động rất cần thiết trong quan niệm tiến hóa. Lạc Thư cũng như Trống Đồng đều đi theo ṿng khắc. Nói đơn sơ là “tả nhậm” tức đi theo ṿng ngược chiều kim đồng hồ. Trong Trống đồng các người vũ để tay trái hướng về mặt trời. Sách cắt nghĩa chữ khắc là hoạch (khắc giả hoạch dă). Hoạch là thu hoạch nên “ba hồi trống thu không” có nghĩa là đi theo đường Trống Đồng (ṿng khắc) mới Thu được cái Không chân thực. Ba hồi trống là các số 2, 3, 5 hay hành Hỏa số 2 khắc Mộc số 3, Mộc khắc Thổ số 5. Xem vào h́nh ṿng khắc sẽ thấy số 3 tiến vào số 5. Đó là biểu tượng, c̣n nói theo Trung Dung là “khủ phù ngoại dụ chi tư, nhi sung kỳ bổn nhiên chi thiên” (câu 1) = “là từ bỏ những cái trần trược bên ngoài có tính cách dụ dỗ, để làm cho cái gốc thanh của ta thêm sung măn”. Thực hiện là Vô vi bịt lỗ tai, cài lỗ mắt, gh́m cái tinh để làm cho mạch chấn lực bộ đầu th́ sẽ thu được cái Không chân thực, biểu lộ bằng diệu hữu là trụ được điểm, rồi sẽ có thánh thai, xuất hồn, tâm thần thanh nhẹ để “tiêu tao du”.

Cũng v́ thế mà “ba hồi trống thu không” đă được khua lên trong Vô vi. Sách Chơn Lư có câu:

Trống Long Hoa giục đến giờ,

Sao con cứ măi chần chờ vậy con?

Trống Long Hoa đă giục nhưng trước đó cũng đă gại Trống trong câu dao miền sông cầu thường được hát khi múa trống rồng:

Trống rồng canh đă điểm ba.

Trống rồng là trống Long Hoa đó. Tại sao lại gọi là trống? Thưa v́ Pháp lư Vô vi là trống trơn: vô là không, vi là du bé cũng không. Bởi thế pháp này được ban ra cho loài người để sửa soạn Cơ Quy Nhất là v́ nó giống như bản tính của Trống Việt tức là trống rỗng. Nói Pháp lư Vô vi hay nói Đạo Trống cũng là một, cho nên nó mới hợp nhau từng chữ như thế. Vô vi nói “Long Hoa kỳ ba” th́ Đạo Trống nói “ba hồi trống thu không”. Đạo Trống nói: “Trống Rồng canh đă điểm ba”, th́ Vô vi nói: “Trống Long Hoa giục đến giờ”.

Lại c̣n vụ khai mạc Trống khi mới đúc xong th́ xưa kia đều do các bà, nay câu Trống Long Hoa cũng do miệng Đức Linh Nữ Kim Thân. Hợp nhau từng nét như vậy đó, v́ thế mà tiếng Trống mới được khua lên để mở hội Cơ Quy Nhất: quy Tam hợp Ngũ nhờ nguyên lư Chí Trung Ḥa của Trống Việt.

4. Nguyên lư Chí Trung Ḥa đă bày tỏ trong Trống Việt

- Đâu nào? Xin chỉ cho coi.

- Đây nè: trên mặt trống đó.

- Mặt trống à, có thấy chi đâu?

- Đây nè: hăy xem cho kỹ trên mặt trống có tất cả 5 ṿng chia ra 3 đợt.

Đợt ngoài cùng gồm 2 ṿng chim và nai đại diện cho đất.

Đợt giữa gồm 2 ṿng đại diện cho người cả tiểu ngă (ṿng người đang múa) lẫn đại ngă (ṿng những tam giác gốc).

C̣n ṿng trong cùng là đại diện cho Trời ta gọi là mặt trời (tức thay mặt cho Trời) đó.

Vậy là đủ mặt Thiên Địa Nhân tức gồm toàn vũ trụ rồi c̣n chi. Toàn vũ trụ thế mà tất cả đều ḥa hợp, đều đang cùng nhau ca vũ. Đó không là cảnh Thái Ḥa sao. Đây là điểm một.

Điểm hai tất cả các ṿng vũ đều đang tiến theo chiều “tả nhậm” tức tiến ngược kim đồng hồ, có nghĩa là không tiến ra mà lại tiến vào, vào đến cùng cực là mặt trời. Nói mặt trời là nói tạm chứ trời có mặt đâu, trời chẳng có chi hết, vô vi hạng nặng mà lị. Có vậy mới là trung tâm quy hợp cho tất cả muôn loài. Nói theo Lăo: nơn xe có rỗng th́ mới là chỗ quy tụ cho mọi đũa xe.

- Đă thấy rồi, rơ ràng là cuộc Thái Ḥa: hay quá ta!

- Vậy mà chưa hết, đó mới là mặt ngoài chứ bên trong c̣n lắm điều hay.

- Đâu nào xin nói thử nghe thêm chút nữa, ham quá ta.

- Muốn xem nữa hả? Hăy lật ngửa Trống lên.

- Rồi.

- Đít Trống có bịt kín không?

- Không.

- Bên trong có thấy cái chi không?

- Cũng không nốt.

- Đấy! Cái hay ở chỗ đó, ở chỗ không có ǵ, không bịt kín: thế mới thực là Trống chứ. Nhờ vậy mà cái Trống mới hay vô cùng, quả đáng tham dự vào câu “chân không diệu hữu”. Thế nhưng biết bao người không thấy được rằng, cái Trống muốn là cái Trống th́ phải trống phải rỗng. Chính v́ trống không thấy thế nên du mục Bắc phương mới đem trống mà bịt kín hết rồi người ta cứ để nguyên tên cũ mà gọi là cái trống, thành ra cái trống đă bị bịt kín rồi đưa ra đánh hồi lùng th́ làm sao mà hiểu được chữ “ba hồi trống thu không”. Phải là trống rỗng mới thu được cả ba Trời Đất Người quy vào Một mối được chứ. Có thế mới thống nhất được con người. Vậy mà xưa rầy nhiều đạo giáo ưa đánh trống đă bịt kín mít như vậy, cho nên đánh thủng cả ngàn vạn trống bịt kín mà đạo vẫn cứ thoái hóa và càng cố gắng thống nhất th́ càng ngoi ra đa tạp, đa phe, đa phái cho nên Cha Trời mới phải trao cho Tân Dân của Việt Nho khởi lo việc quy nhất v́ cái Trống của Việt chưa bị bịt kín. Cũng như Nho vẫn đặt lư tưởng cao nhất ở chỗ “vô thanh vô xú”.

Như vậy cả Việt lẫn Nho đều tỏ ra c̣n tương đối giàu chất Vô vi hơn, xứng đáng đứng ra khởi công lo Cơ Quy Nhất, nhất là phía Việt càng tỏ ra chú ư tới cái Trống, v́ Trống đă không bịt kín, thế mà lúc treo Trống để đánh c̣n cẩn thận treo cách mặt đất 20 phân, bên dưới khoét cái lỗ sâu 30 phân để chỉ trời 3 đất 2 giao thoa. Trời ở trên nằm úp xuống mặt đất (để giao chỉ). Lối treo này c̣n được duy tŕ trên Mường cho măi tới đầu thế kỷ này. Đó là lối treo nhằm nhấn mạnh chữ “Chí Trung”: trung đến không c̣n chi, đă trống tức chưa bịt kín vậy mà bên dưới c̣n để trống đúng như con số cơ cấu 2-3 th́ biết tiền nhân muốn nhấn mạnh đến chữ Trống ngần nào. Các ngài thâm tín rằng có vậy tiếng trống mới lan ra khắp hàng huyện, ta có thể nói “lan khắp hoàn vũ”. May thay muốn được thế th́ không c̣n phải dùng biểu tượng cái Trống nữa v́ ta đă có Trống Vô vi không bịt kín, nên hy vọng tiếng trống sẽ nghe ran khắp hoàn cầu.

5. Kinh vô tự

Cha Trời đă bảo Vô vi là “chân kinh vô tự”. Về điểm này Việt Đạo cũng lại giống Vô vi nữa v́ cũng có kinh vô tự. Vô tự mà lại là kinh tức Không mà Có, Có mà Không đúng đạo Trống. V́ không tức không có chữ, nhưng lại có nên phải biểu thị bằng đồ h́nh và số độ. Sau đây xin kể ra h́nh thức đầu tiên của kinh vô tự mà ta quen nghe nói tói, đó là:

Sách ước, gậy thần. Đây chính là tên của kinh vô tự, không có chữ mà chỉ có vài ba số tức 2, 3, 5 thuộc ṿng sinh cũng gọi là ṿng trong, rồi thêm 4 số ṿng thành (6, 7, 8, 9) cũng gọi là ṿng ngoài thành 9 như h́nh sau:

 

Huyền sử nói gậy thần có 9 đốt, ai biết cầm vào đốt thứ năm th́ biết được cả sống lẫn chết. Vua Hùng có gậy thần, Kinh Hùng gọi là “huyền thuật” nhờ đó uy quyền trải khắp 15 bộ nước Văn Lang. 15 bộ là có ư đề cao hai bộ số 3 và 5 (3*5=15). Huyền sử nói ai mà nắm được số 5 th́ biết được cả đạo sống lẫn chết, đó là Thái Ḥa, sống chết khác nhau vậy mà ḥa được là nhờ số 5 của Ngũ hành. Như vậy sách ước gậy thần không là chi khác hơn là Ngũ hành.

Kinh Dịch. Sau sách ước gậy thần th́ phải kể tới Kinh Dịch. Đó là cuốn kinh có 5 giai đoạn h́nh thành th́ ở ba giai đoạn đều hoàn toàn vô tự. Một là đạo Dịch của trời đất biểu diễn bằng các cặp đôi trong huyền thoại như sông núi, tiên rồng. Hai là đạo Dịch của Phục Hy biểu thị bằng các nét đức và liền. Giai đoạn ba của ông Đại Vũ thêm số 9. Từ giai đoạn bốn, rồi năm mới có chữ gọi là hệ từ nghĩa là “lời treo” tức treo vào quẻ đă có từ trước. Tinh hoa của Kinh Dịch nằm gọn trong ba bộ số 2, 3, 5 (âm dương, tam tài, ngũ hành) c̣n các lời thêm vào tuy có giúp phần nào cho người sau hiểu được ư kinh nhưng cũng là cớ gây ra sa đọa, nhất là Dịch của Văn Vương. Có thể nói hệ từ gây cả lợi lẫn hại, nhưng hại nhiều hơn lợi. Nay muốn hiểu được tinh thần đó th́ có thể đọc Trung Dung. Sách Trung Dung chính là một quyển kinh của Việt Nho mà đồng thời cũng có thể là kinh của Vô vi v́ nó cung ứng cho Vô vi tất cả: từ tên gọi đến định đề (prémise), nguyên lư và tinh thần nữa.

Sách của thần Tản Viên. Ngoài Kinh Dịch ra th́ c̣n một số huyền thoại khác liên hệ đến kinh vô tự như Lạc Thư đă nói đến nơi khác hoặc như truyện Thần Tản Viên xuống thăm vua Thuỷ Tề là Lạc Long Quân được ban cho một sách chỉ có 3 trang giấy trắng và thần đă đọc 2 trang... Đó ta thấy con số 2-3 xuất hiện. Trong Đạo Nội có tứ bất tử th́ thần Tản Viên đứng đầu rồi tới Chử Đồng Tử và Thánh Dóng, sau cùng là bà Chúa Liễu Hạnh. Đó có thể là cách diễn tả bộ số Ba thường cũng xếp thành h́nh tam giác gặp được lu bù trong Trống Đồng. Ta có thể xếp tứ bất tử thành h́nh tam giác như sau: 

                             

Tản Viên giữ góc trên để tỏa ra 2 phía. Tản Viên tức h́nh tṛn (viên chỉ thiên) tỏa ra (tản ra) hai bên: số 2 chỉ đất, làm thành h́nh ba góc, nên Thần cũng có tên là Ba V́.

Thánh Dóng là quan thầy triết lư An vi, không nói mà chỉ làm là đuổi quân xâm lăng (đó là khử trược) tới lúc thành tựu không màng công danh, lợi lộc, nhưng lên núi Sóc Sơn ở miền An Việt để hóa ra tiên. Chử Đồng Tử là quan thầy Vô vi phái tả chân: vô là không, vi là khố, ông đă cởi bỏ trần trược đến cái khố cũng không luôn. Liễu Hạnh đại biểu nguyên lư mẹ nên quy ẩn (trong ngoặc) nhưng vẫn là Bà Chúa Xứ tức làm Chúa của văn hóa nên nó không đốc ra đực rựa.

Nón chóp và linh tinh.

Đă nói đến sách “Ba V́” cũng xin nói thêm về cái nón chóp có h́nh tam giác. Đó cũng là một thứ kinh vô tự. Ban đầu tôi không hề để ư đến ư nghĩa nón chóp, nhưng khi nghiên cứu gặp thấy những h́nh vẽ người có đầu nhọn như tam giác và ghi chú sự nhọn đó chỉ tinh thần th́ tôi đặt vấn đề nón chóp có được tiền nhân ta gửi gấm ư nghĩa chi chăng? Tại sao toàn dân dùng nón chóp một cách bền bỉ? Cuối cùng tôi khám phá ra cái chóp chỉ mặt trời tỏa ánh xuống chung quanh đầu: chung quanh là ṿng tṛn, là số 3 hợp với số cơ cấu của Việt Nho. Suy đoán như vậy là do tôi đọc biết Kim Tự Tháp là h́nh ảnh mặt trời chiếu xuống 4 phương, c̣n mặt trời là đỉnh tháp. Lúc ấy tôi mới nghĩ đến nón chóp cũng như vậy. Sự suy đoán c̣n được kiện chứng bằng những tượng Chàm đầu nhọn, cũng như tượng Núi Nưa cũng đầu đội mũ nhọn và nhất là cuối cùng khám phá được ư nghĩa những tam giác đặt quanh h́nh mặt trời mà các học giả đầu tiên gọi là tam giác gốc. Sau bao suy trước tính sau tôi mới nhận ra đó là Đại Ngă Tâm Linh quan trọng vô cùng trong nền triết học nhân chủ, nên có vô số h́nh tam giác nhỏ rải cùng khắp mặt trống. Nay gặp Pháp lư Vô vi th́ nón chóp nhắc tôi tới cái tam giác của điển quang pháp giới là Tinh, Khí, Thân mà ông Tư có vẽ ra h́nh tam giác trong quyển Phép Xuất Hồn (tr.46 và 48). Từ đấy tôi coi nón chóp là nón đă xuất hiện tự lúc cha ông ta c̣n thờ mặt trời, và nón chóp đă được giao phó nhiệm vụ làm biểu tượng cho việc đó. Điều suy đoán này hợp bầu khí văn hóa Việt Nho quen gửi ư tưởng vào sự vật thường dùng như nhà ở, áo mặc, mũ, nón. Thí dụ Nho gia xưa đội mũ tṛn chỉ trời, chân đi giầy vuông chỉ đất. C̣n Việt th́ đội nón chóp chỉ mặt trời và sau cũng là Trời, c̣n áo th́ có 5 cúc: 2 cúc trên ngực c̣n 3 cúc ngang hông. Nhân tiện xin nói đến hai việc nữa là luyện thuốc trường sinh và thai tức.

Luyện thuốc trường sinh

Luyện bằng chất đơn sa (cinabre) là một sự hiểu trật chữ tâm pháp. V́ tâm là một khối có màu đỏ nên cũng gọi là hồng trần. Từ chữ hồng chữ đỏ đó dẫn đến chất đơn sa có màu đỏ, nên đơn sa cũng gọi là chu sa là chất đứng đầu trong thuốc trường sinh: chính nó đă giết hại khá nhiều nguời muốn đi t́m trường sinh trong nẻo ỷ lại, cậy dựa vào thuốc bên ngoài.

Thai tức và tinh thai.

Hiểu theo Vô vi là pháp thở làm cho nảy sinh thánh thai... nhưng v́ sự suy thoái nên đă hiểu quặt ra phép “hoàn tinh bổ năo” trong Đạo Giáo là đưa tinh lên đỉnh đầu để được sống lâu. Phép đó đưa đến lối thiền bằng giao cấu bên Tây Tạng: hai bạn đạo một nam một nữ giao hợp trong thế ngồi quay mặt vào nhau và cứ để trong trạng thái tĩnh cho hai luồng khí âm dương không xuất mà chỉ bồi dưỡng nhau như thấy những tượng tạc thần nam nữ đang ôm nhau trong thế giao hợp đó (gọi là maithuna) để đưa tinh lên đỉnh đầu như được tả trong sách Đại Hỉ Lạc Thiền Định. Pháp này cũng thấy bên Ấn Độ trong Kundalini yoga đem tinh thai (bindu) lên đỉnh đầu nơi hoa sen ngh́n cánh để đạt trạng thái vô nam vô nữ, là trạng thái giống Thượng Đế, nên là Niết Bàn cực lạc. Quan trọng là sự h́nh thành tinh thai. Có sách bảo rằng phải h́nh thành bằng thiền định, nhưng phần lớn bảo rằng đàn bà thực để thúc đẩy khí âm trong hàn giả chỗi dậy rồi dùng phép thở và tập trung tâm trí mà đưa tinh lên đỉnh đầu, lúc ấy tinh khí biến ra tinh thai (bindu). Chính trong ư đó mà có câu châm ngôn “Phật tính nằm ngày trong âm vật: buddhatvam yosit-yoni-samastra”. Khó có thể xét đoán lối hành pháp này đi tới đâu, chỉ biết đă có nhiều lạm dụng nên bên Tàu từ sau đời Đường các sách liên hệ đều bị kiểm duyệt gắt gao nên thất truyền hoặc đi vào mật tông. Ở đây chỉ nhắc sơ qua để biết trong dĩ văng đă có dấu vết như thế. Nay nhờ ánh sáng vô vi ta có thể hiểu được là tinh thai chính là Thánh thai bị hiểu quặt đi.

C̣n biết bao pháp về thở, về chay tịnh (tịch cốc) tràn đầy trong trăm ngàn sách (Đạo Tạng) của Lăo giáo đều chứng tỏ đă có đạo tu, tuy xét về công quả và công tŕnh th́ rất cảm động, tỏ ra ḷng tu đạo rất thâm sâu, nhưng về công phu th́ có nhiều thoái hóa, may nhờ Pháp lư Vô vi ta lại thấy được ư nghĩa trung thực của các biểu tượng xưa đă bị bóp méo nhiều khi đến độ kỳ dị như phép hoàn tinh...

Vũ chú cửu đỉnh

Bây giờ xin nói đến trang huyền sử lẫy lừng là thiên Vũ Cống trong Kinh Thư nói về vụ ông Vũ đúc 9 đỉnh. Đây là biểu thị việc Việt Đạo cải hóa vănn hóa du mục Bắc phương đại biểu bằng ông Cổn là cha ông Vũ. Ông Cổn không trị thuỷ nổi v́ làm ch́m mất ngũ hành, tại ông đắp đê ngăn nước. Đến lượt ông Vũ lên thay cha không đắp đê nhưng đào sâu xuống ḷng sông (tuẩn xuyên: tức nhận số 3) liền trị được thuỷ. Trị thuỷ chính là cai trị nước mà bí quyết thành công là “hư tâm”= tức biết giữ đạo Trống.

Huyền sử c̣n chỉ xa nguyên do của sự thành công bằng cách khác là “ông lấy vợ Việt” hiểu là đi theo nguyên lư mẹ như Việt Đạo vốn căn cứ trên bộ số vài ba tham lưỡng. Sách Trúc Thư Kỷ Niên nói ông Vũ có “hai tai mà ba lỗ” (lưỡng nhĩ tam lữu). Đọc câu trên ta không hiểu làm thế nào mà hai tai lại có đến ba lỗ! Ẩn ư ǵ đây? May nhớ có câu sách trong Kinh Dịch ta lần ra ư nghĩa. Câu đó là “tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số” = ba trời hai đất là số để tựa: như vậy là có số 3 và số 2 rồi, chỉ khác chi tiết là ở đây nói lưỡng trước tham (luỡng nhĩ tham lữu) tức nói theo Việt là 2-3 (vài ba). Rồi ta lại t́m ra h́nh ảnh con số 2-3 trong cái lịch hay cái đỉnh đều có 2 tai ba chân. Thế là t́m ra ư nghĩa tiêu biểu đầy đủ.

Đến nay nhờ Pháp lư Vô vi ta đoán thêm rằng hai bộ số đó chắc là ám chỉ một đạo pháp có thể giống như phép soi hồn dùng 2 tay bịt tai, mắt, tinh. Lăo Tử nói: “thường ngậm miệng, bịt tai, mắt nhụt bén nhọn...” (ĐĐK 56).

C̣n tại sao lại có vụ đúc đỉnh là do chữ đỉnh đầu. Y như vụ có tên cái Trống là do tâm hồn phải được trống trơn, phải hư tâm. Muốn nhấn mạnh th́ dùng ngay chữ Trống đặt tên cho hiện vật được dùng để chỉ phép tu luyện gồm các số 2, 3, 5. C̣n chữ đúc th́ do chữ chú ư vào đỉnh đầu đọc trại từ chữ trụ (trụ ư). Việc đúc th́ Tàu lại đọc là chú: thành thử nói trụ ư vào đỉnh đầu dễ dàng biến ra chú đỉnh là đúc đỉnh. C̣n số 9? “Vũ chú cửu đỉnh” ẩn nghĩa chỉ phương pháp đạo tâm của Việt Đạo bảo phải chú ư vào đỉnh đầu mà người xưa gọi là “thượng đan điền” có 9 ngăn đặt tự trán ra sau gáy, ngăn giữa là huyệt bách hội. Đó quả là chú ư vào đỉnh đầu như Vô vi, nhưng v́ thất truyền nên người sau hiểu trật ra ngoài. Thành thử nói ông Vũ trụ ở đỉnh đầu nơi có 9 ngăn biến ra biến ra ông Vũ đúc 9 cái đỉnh. Sự hiểu sai đó có lối đọc chữ TR ra CH: đọc trụ ra chú, khách trú biến ra khách chú: chú ba Tàu có nghĩa là ba ông Tàu trụ ngụ bị người ta hiểu là chú là bác.

Huyền sử nói thêm rằng: đỉnh dùng nấu đồ cúng không cần lửa cũng sôi và nấu chín được đồ ăn. Nếu lấy ánh sáng Vô vi chiếu vào th́ ta biết tinh do thận thuỷ đưa lên để khí hỏa luân xa phanh luyện ra Thần, không cần lửa v́ đă có lửa bên trong người gọi là hỏa luân xa. Chính trong ư đó mà có danh từ “lư hương xạ nhiệt” ḷ hương tỏa sáng. Lư hương theo nghĩa đen biến ra các b́nh đèn có ba chân thấy được lu bù ở khảo cổ cả Tàu lẫn Việt (Đông Sơn) mà xưa kia chỉ việc tu luyện, c̣n nay dùng để đốt hương cũng như các đỉnh vậy, nhưng theo nghĩa nội th́ ba chân chỉ tam huê tụ đỉnh, hoặc Tinh, Khí, Thần hoặc đạo Ba...

Đó là đại để những dấu chân của đạo pháp xưa đă để lại trong những cái bé nhỏ không ai ngờ: từ 5 cái cúc, cái nón chóp, cho đến những cái đỉnh 3 chân 2 tai, nấu chín đồ ăn không cần lửa... đều liên hệ với nhau một cách cơ cấu mà huyền sô 2-3-5 là then chốt, tất cả đă xuất hiện rất sớm nói là có măi tự đời Thần Nông. Đó có thể gọi là những kinh vô tự mà khi nhận thức ra được ư nghĩa tiền nhân gửi gắm vào những biểu tượng nọ liền hiểu được đó chính là tâm đạo và biết được tâm đạo nọ đă được ban ra rất sớm, nhưng v́ bí truyền nên các tổ sư dùng các biểu tượng trên để biểu thị, nhưng người sau không hiểu được nội dung nên đă hiểu trật ra ngoài sự vật như luyện thuốc trường sinh, đúc đỉnh, thai tức ra giai cấu thiền. Chỉ có Nho giữ được nhiều nghĩa nội hơn trong phạm vi chính trị, luân lư và giáo dục như cơ cấu hóa ngũ hành và đặt con người vào điểm trung tâm, nhờ đó có những câu “vũ trụ tiện thị ngô tâm, ngô tâm tiện thị vũ trụ”... và những câu “thiên lư tại nhân tâm” với những khẩu hiệu đầy tính cách nhân chủ như sách Trung Dung (câu 25): “Thành giả tự thành dă, nhi đạo tự đạo dă”: phải tự tu th́ mới tiến (chữ đạo sau là đi là tiến), phải tự thành (thực hành) th́ mới thành tựu, tức nên thánh (thành giả thánh dă).

Nói tổng quan: đạo nội có ngay tự đầu, đến sau suy vi th́ Lăo Thích giữ được ít nhiều phần pháp, c̣n Nho th́ ít nhiều phần Lư, c̣n một phần bàng bạc trong các huyền thoại. Nay Vô vi xuất hiện th́ như ngọn đèn sáng soi vào các biểu tượng âm u kia khiến cho Đạo Nội lấy lại được ư nghĩa trung thực để phục hoạt. Ta thấy Đạo Nội đặc biệt chú ư tới đầu: cất nhà có lễ đặt đ̣n nóc (đ̣n dông) khác Tây Âu đặt viên đá đầu tiên, rồi Nữ Oa đội đá vá trời (sẽ nói sau) cho đến nữ Thần Mộc... đội nón chóp, đúc đỉnh, tam giác góc... Nay Vô vi làm phép soi hồn chú ư đến bộ đầu th́ ta thấy được mối liên hệ ngầm giữa Vô vi và Đạo Nội. Tôi không nói đến lễ tế Thiên v́ có phần thuộc ngoại vương nhưng cũng là một “lốt chân” vĩ đại của Đạo Nội. Tất cả như được sáng tỏ lại cách lung linh dưới ánh sáng Vô vi. Nghĩ tới đó tôi thấy tự ḷng trào lên những mối t́nh sâu thẳm đối với Cha Trời khi ghi lại những dấu xa xưa của tiên tổ với tâm hồn tràn ngập tri ân. Chương này bàn về những lốt chân của Đạo Nội. Có thể hỏi thêm rằng Đạo Nội có tác động chi chăng? Thưa có chứ. Để chứng tỏ Đạo Nội quả là Đạo Trống tuy không hiện h́nh mà vẫn có làm, toàn Kinh không chữ nhưng vẫn tác động mạnh, xin bàn thêm trong chương tới.

VI. Trống Việt thường lung lay bóng Phật

1. Từ huyền sử tới lịch sử

Trống Việt Thường là Đạo Việt. C̣n bóng Phật xin hiểu là Phật giáo đă suy thoái, do đó đă bị Việt Đạo điều chỉnh nhiều lần.

Lần đầu là truyện Man Nương trong Kinh Hùng đă biến đổi Phật Kim ra Phật Mộc. Nói bằng số là từ số 4 ra số 3; từ duy dương sang miền âm dương ḥa của nữ Thần Mộc tức miền mà nguyên lư mẹ làm chủ văn hóa. Cho nên sau này khi thần Avalo Kitesvara xuất hiện trên đất Việt Nho đă mặc h́nh nữ là Quan Âm. Khi c̣n bên Ấn Độ Ngài là Thần Nam, làm phó đức Di Đà trong Tây phương tịnh thể.

Truyện Man Nương chính là trang huyền sử tuy vắn tắt nhưng báo hiệu những lần đổi thay lớn sẽ xảy ra cho Phật giáo khi truyền vào địa bàn tổ của Việt Nho, mà ở đây xin nhắc lại vài ba trường hợp đặc biệt:

Lần hai có thể quy tụ chung quanh nhà sư Trúc Đạo Sinh (365-434) v́ đă nhấn mạnh tính chất nhân chủ khi tuyên bố Phật tính có trong mọi người; Phật tức tâm, tâm tức Phật, chỉ cần t́m trong tâm ḿnh th́ có thể đắc đạo khỏi cần cầu ông Phật nào bên ngoài. Cũng nên kể đến thuyết đốn ngộ của ông cho rằng con người có thể đạt đạo ngay trong một kiếp, ngược với thuyết tiệm tiến bảo phải tu trong nhiều kiếp. Đó là những điều đặt nổi nhân chủ tính tuy đă có trong Phật giáo, nhưng v́ bầu khí thần chủ của Balamôn nên không phát triển được như khi truyền vào đất Việt Nho.

Lần thứ ba có thể quy tụ vào Thiên thai tông do nhà sư Trí Khải (tịch năm 597) với câu “lư sự vô ngại” và thuyết “Ngũ Thời”. Với câu “lư sự vô ngại” ông bác bỏ các thuyết coi đời là ảo hóa, là huyễn tướng. Trái lại đời cũng thật như tâm, hai đàng thông dung như kiểu Kinh Dịch: âm cũng có thực như dương, lư cũng thực mà sự cũng thực. Lư sự viên dung: lư sự vô ngại, sự sự vô ngại.

Với thuyết “Ngũ Thời” ông t́m cách dung ḥa các mâu thuẫn trong Phật giáo. Ông cho sở dĩ có vẻ mâu thuẫn là do đạo được truyền trong nhiều thời khác nhau: có 5 thời là Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Đẳng, Bát Nhă, sau cùng là Pháp Hoa.

Lần thứ bốn là Thiền xảy ra với tổ Huệ Năng (638-713) đưa vào Thiền tính cách hành động thay cho lối tu quá thụ động, biểu thị bằng chín năm ngồi ngắm tường của Bồ Đề Đạt Ma mà người Tàu quen gọi là “Bích quan Bàlamôn”. Huệ tổ cũng chống lối tu quá thiên về kinh sách, kéo chú ư nghiêng mạch đến việc làm, đến tâm tính. Tam bảo của Phật giáo... tắt cho giác ngộ, chơn chính, và thanh tịnh. Đại để đó là mấy cuộc biến đổi làm cho Phật giáo dễ được chấp nhận cho người theo Việt Nho. Chứ nếu để y nguyên như bên Ấn Độ th́ khó ḷng được đón nhận v́ hai đàng theo cơ cấu khác nhau: đại để bên Phật là Vô, bên Nho là Hữu Vô. Nay muốn được chấp nhận tất phải cải đổi cho ra Hữu phần nào.

Niết Bàn ra Ṭa sen.

Bi quan ra Lạc quan (Đức Di Lạc)

Avolo nam thần ra Quan Âm Thị Kính...

Tuy nhiên những cuộc biến đổi trên vẫn chưa đi đến triệt cùng. Trời của Phật giáo vẫn c̣n rạn nứt chưa ở được, không thấy Thượng Đế đâu cả. Cho nên c̣n cần đến bàn tay của Nữ Oa Nghi Mẫu xuất hiện để nấu đá Ngũ hành mà vá lại, rồi mời Thượng Đế hồi kinh th́ việc cải biến mới là triệt để.

2. Phải chăng Nữ Oa tái xuất giang hồ?

Nữ Oa đội đá vá trời”. Đó là câu nghe quá quen thuộc nên không c̣n mấy gợi lên ǵ trong tâm trí con cháu, nhưng kỳ thực câu trên hàm tàng một nét đặc trưng hết sức hệ trọng của triết lư Việt Nho, là nền triết cân đối có âm có dương. Điều này lẽ ra phải là đức phổ biến cho hết mọi nơi, mọi đời, như ban sơ đă xuất hiện phần nào nơi hầu hết các văn hóa. Nhưng rồi đến đời phụ hệ đàn áp nguyên lư mẹ, làm cho văn hóa trở nên nghiêng lệch, đốc ra một chiều, huyền sử gọi việc đó là Cộng Công húc đầu vào núi Bất Chu là cột chống trời, nên trời nghiêng đất lệch. May nhờ Nữ Oa Nghi Mẫu ra tay vá lại, nên con cháu Việt Nho vẫn c̣n trời để che. Các nơi không được mẹ Oa Lô vá trời cho th́ trời vẫn dột nát. Trời của Phật giáo cũng bị thế. V́ theo cơ cấu số 4 là số Đất. Tứ đại là tứ tố mà không là Ngũ hành cân đối, nên Trời Đất không được đặt vào đúng vị. Trời bị soán ngôi... Nên trước đây đă được nguyên lư mẹ vá qua loa hai lần: lần một với Man Nương, lần hai với Quan Âm tống tử, nhưng chưa hết dột. Nên vẫn c̣n cần đến bàn tay của Thái Mẫu. Phải chăng những lời sau đây có ư báo tin Mẫu đến:

V́ nhiệm vụ ĺa nơi cung thượng,

Đà La Hoa thiên mạng hiện thân.

Chơn âm ra lệnh ân cần,

Phật, Trời, Tiên, Thánh cứu thêm vài phần.

Các giáo chủ hội về đầy đủ,

Để xin cùng Thiên Mẫu lănh công.

Trước lo trật tự giáo môn,

Sau cùng các đấng lập phương cứu đời.

Tiên thiên đến hậu thiên hợp sức

Các linh căn có xác dưới trần.

Đều ra tŕnh diện Mẫu Nghi,

Để ra cứu nước cứu dân hội này.

Mùi hoa thơm Mẫu rưới khắp miền.

Tiếng đàn nhạc trổi triền miên,

Chuông ngâm trầm bổng ru hồn vạn linh.

..........................................................

Huyền lực hóa vô biên khó tả,

Xưa Nữ Oa luyện đá vá trời.

Đà Hoa vá đất hiện thời,

Chỉnh luôn tam cơi mà đời chưa hay.

Bầu thái cực hóa sinh vạn hữu,

Cũng là nguồn dưỡng dục muôn loài.

Âm dương tiêu trưởng vận hoài,

Ngũ hành, tứ tượng, Hà đồ, Lạc thư.

Đất Nam Việt trung ương mồ kỷ,

Nơi tập trung phát xuất huyền năng.

Kỳ ba nắm hết chuẩn thằng,

Bảy hai ba sáu (*) tuỳ tùng lại đây.

Để sau phát triển hậu lai.

....................................................

(Trích lời sấm về Long Hoa của Hồng Quang (1970). (*) Bảy hai chỉ đất, ba sáu chỉ trời, tức cả vũ hoàn)

Phải chăng Mẹ (Mẹ mà Cha luôn) đă xuất hiện rồi trong một thân Nữ Việt?

Câu hỏi trên tôi chỉ đặt ra sau khi đă đọc đi đọc lại đến nát quyển Chơn Lư (sách thu thập những bài nói của Kim Thân Cha) và xét nét thật kỹ th́ thấy:

Tiêu cực: không có dấu nào gọi là lừa đảo tức không có những lời mở lối cho sự đàn áp con người. Vẫn nể trọng con người đến cùng cực. Không lời nào lớn lối, ép buộc như dọa đe hay hứa hẹn, cũng không có những phép lạ thị oai.

Tích cực: thấy là một nền triết siêu diệu vượt hết thảy, nghĩa là đừng nói vượt sức một cô gái lại thuộc miền Nam nước Việt nơi quá nóng không tiện suy tư thâm trầm, chỉ hợp cho văn chương nhẹ với ba câu vọng cổ mùi... nhưng là vượt xa luôn cả những tay chuyên môn kỳ cựu về triết học, bằng sắc treo lủng lẳng khắp nơi, sách đọc có tới thiên kinh vạn quyển cũng không thể nói được như vậy. Trước một vấn đề nào bất cứ, hễ đặt ra là được trả lời liền, không cần sắp xếp thế mà ư tưởng cứ tràn ra cách lớp lang và xoắn xuưt với nhau làm thành mũi dùi nhọn hoắc đâm thủng vào trung tâm đề tài. Nói ngay về lối văn đă là một sự hiếm họa: trước những vấn đề sâu xa hóc búa mà được nói ra cách rất dung dị mà vẫn đầy đủ và phong phú, không hề dùng một ngoại ngữ nào mà vẫn trôi chảy đến độ nhiều người không nhận ra cái tài vượt khó khăn nọ. Nhưng những ai chuyên môn mới thấy quả thực đó là một áng văn nghị luận trác việt. Xưa rầy Việt Nam vẫn bị kể như không có triết lư, đột nhiên xuất hiện một quyển triết tuyệt luân bằng một thứ tiếng Việt đầy đủ và phong phú ngay trong phạm vi triết lư siêu h́nh. Đó quả là một hiện tượng kỳ lạ. Chưa biết các điều nói tiên tri về sau sẽ thật tới đâu (nên tôi xin được gạt sang một bên) chứ về văn hóa th́ Việt Nam đă được một ân ban quư giá là quyển Chơn Lư, khiến người dè dặt đến đâu cũng thấy đáng lưu tâm nghiên cứu.

3. Chung quanh vụ tiếp điển

Sau khi thấy lời nói đáng tin, chúng tôi mới hỏi han tra cứu về hiện tượng. Được biết cô Lê Hoàng Kim là nữ sinh trường Oiseaux Đà Lạt, đỗ cử nhân, đă dạy Pháp văn ở trường Hưng Đạo (?) dùng hết tiền để nuôi trẻ không cha mẹ sống lây lất đầu đường xó chợ (cô đă gửi chúng vào các trường). Khi được tiếp điển (lúc 25 tuổi, năm 1976) đột nhiên cô thấy ḿnh sáng suốt lạ thường, thông hiểu nhiều chân lư cao cả... Dầu vậy cô vẫn nghi ngờ sợ bị tà ma xâm nhập chi đây, nên cô đă la lối vật vă không chịu ngủ, cứ nói: “xin ông ra khỏi tôi”. Linh điển bảo cô đi gặp ông Tám. Cô đă đến gặp và nhờ ông chuyển lên Thượng Đế lá sớ cô viết để tố cáo vụ này mà cô cho là việc của “khối mạo hóa”. Nhưng ông Tám đă chứng nhận chính là điển Ngọc Hoàng Thượng Đế, cô nên về tiếp tục học. Thượng Đế bảo cô mỗi tuần đến Thiền Đường (?) một lần để ông Tám giúp quân b́nh luồng điển. Chỉ học ít tuần cô đă được lên chức Kim Thân Cha...

Đó là đại để về vụ này. Theo những dữ kiện ít ỏi đă thâu góp được có thể nhận thấy những khác biệt với vụ bị tà ma nhập hoặc ông lên bà xuống như sau:

Trước hết nếu là tà th́ người bị nhập mất tự do, mất sáng suốt, mắt trở nên lờ đờ, mất trí, có khi điên khùng, sức khoẻ thường sa sút. Trái lại cô Kim vẫn giữ được sự sáng suốt, tỉnh táo và tự do tức làm chủ thân xác cũng như tâm trí ḿnh, sức khỏe lại gia tăng.

Thứ đến nếu phải là ma nhập th́ không làm ǵ có vụ trải tiếng là tu cao nhất đương thời, đó là ông Tám. Ông đă mở huệ nhăn có thể nhận định tường tận về thế giới vô h́nh, đă từng chứng kiến rất nhiều vụ ông Tư đuổi quỷ, nên rất am hiểu về hành tung của quỷ ma, v́ vậy việc chứng nhận của ông có giá trị vững chắc; ông đă phải tuyên bố: “Ngài là chủ các nhà truyền pháp” ngầm hiểu rằng ông chỉ là thừa sai của Ngài.

Ngài chưa muốn cho nhiều người biết đến, chỉ cho một số có đại căn duyên mới được gặp. Khác hẳn nếu là tà th́ thích ra mặt, nói ào ào rứt ra không được...

Thường những người bị tà nhập thích làm phép lạ để khoe mẽ thị oai. Đây không làm phép lạ nào cả, chỉ có một số sự vụ xảy ra như trường hợp mỗi lần Ngài xuất hiện người ta tuôn đến một hai trăm mà công an không làm phiền ǵ. Người ta đoán rằng: Cha có làm sao đó mới được như vậy, chứ luật lệ lúc này là hễ tụ họp trên 10 người phải có phép.

Những người được nghe Ngài thuyết giảng đều cảm thấy rất say mê, ngồi gần như được thanh nhẹ thoát tục, an tịnh và phúc lạc như quên hết cơi trần nhỏ nhen này.

Tóm lại không thấy dấu hiệu nào tỏ ra là tà nguỵ. Trái lại thấy là trường hợp rất đứng đắn và dị thường nên đă được hầu khắp giới trí thức thuộc đủ các tôn giáo: Phật, Cao Đài, Ḥa Hảo, Nho, Công giáo... đă đến tra xét và thử thách đủ mặt cuối cùng đều phải công nhận. Trong số đó nên đặc biệt chú ư đến Công giáo và Nho. Công giáo xưa rầy rất thận trọng đối với những trường hợp tương tự, th́ hầu hết bỏ ngoài tai coi như tà ma quỷ mị không nên đụng tới. Nhưng lần này cũng có một nhóm đến xin diện kiến, đặt vấn đề cách rất kính trọng: như mở đầu bằng Kinh Thưa Cha... (được ghi lại trong 2 băng và đă in ra sách). C̣n Nho th́ xưa rầy có thái độ gần giống Công giáo đối với những trường hợp tương tự thường tiên thiên khinh rẻ không thèm lưu ư. Vậy mà lần này cũng cử phái đoàn hùng hậu đến xin diện kiến và tŕnh bày rất nhiều vấn nạn cũng như t́m hiểu thêm. Tất cả đă được Đức Ngài trả lời thỏa đáng như được ghi lại trong quyển Chơn Lư.

Tóm lại đây là một hiện tượng dị thường có thể tin được theo niềm tin của triết lư, nghĩa là trước khi tin phải điều tra xét nét thử thách cực kỳ cặn kẽ. Vậy tất cả những ǵ phải là (xét nét, thử thách) đều đă được làm đến chỗ tận cùng có thể, và đă đi đến kết luận: có thể tin được bằng niềm tin triết lư, tức người tin không bị ép buộc mà là do tự t́nh, nên vẫn c̣n giữ tính cách chọn lựa điều nào nên nhận điều nào nên gạt sang một bên. Tóm lại có thể xem Kim Thân Cha như một hiền triết thượng thặng.

4. Đà Hoa Nghi Mẫu

Xưa Nữ Oa luyện đá vá trời,

Đà Hoa vá đất hiện thời (đời ta).

Đà Hoa là ai? Có hai lối thưa nằm ngay trong lối đọc Đà Hoa và cả hai đều đúng. Lối một đọc là Hoa Đà chỉ một thần y có tiếng chữa được những bệnh không ai chữa được. Lối hai đọc Đà Hoa: là đem lại tinh thần ḥa hợp càng đúng hơn nữa. Bệnh trầm trọng nhất của nhân loại ngày nay là bất ḥa, muốn ḥa giải phải có bàn tay thần y. Phải chăng Kim Thân Cha chính là Thần y đến với môn thuốc đó ẩn trong dự phóng “quy tam hiệp ngũ” và hiện đang hướng dẫn các con Ngài luyện đá ngũ hành để trát lại trời là cải tổ các đạo giáo, sửa lại các chỗ sai, để quy tất cả về một mối gọi là “quy Tam hợp Ngũ”. Tam giáo là Thích, Lăo, Nho quy về một mối, Ngũ chi là Nhân đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo, Phật đạo hợp một. Ta thấy Người thi hành điều đó ngay trong cung cách giảng giải: nói như người cha mà không như kiểu các nhà lập đạo. Các vị này thường đi theo lối phán truyền và thường kèm thêm lời đe loi hay hứa hẹn, coi người nghe là kẻ phàm hèn mê muội. Thí dụ: “Ta sợ chúng ngươi c̣n mê muội... và bây giờ các ngươi cả thảy phải quỳ xuống... trước hết ta truyền cho năm phần... Ta sẽ phá nghi cho các người hết mê muội... Hăy y theo lời kinh này mà nói, ấy gọi là chánh pháp”. Thường thường các kinh sách vẫn kèm theo những lời đe loi, hoặc hứa hẹn như vậy.

Trái lại Kim Thân Cha nói năng như một ông cha giữa bày con: hiền từ, ưu ái, xuề x̣a, vui tính để phân giải, khuyên răn, thúc đẩy, soi sáng... không hề dùng kiểu phán truyền hoặc đe loi thí dụ bay không tin tao sẽ sa địa ngục. Trái lại Ngài thường nói nếu các con không tin Cha th́ “hăy gạt Cha sang một bên, Cha không bảo con nào phải tin Cha”. Cả đến những lỗi lầm ta cho là cực kỳ vô phép như vụ “Phật soán vị Thượng Đế” Ngài cũng không để ư đến, Ngài chỉ nói qua loa khi “đứa nó hỏi Cha vậy chứ ông Trời cao hay ông Phật cao?” Với ta th́ ngay việc hỏi câu đó đă là một tội quái gở, vậy mà Ngài chỉ trả lời cách cười vui giàn ḥa. Có người nói quyết chí tu đến xuất hồn để lên đảnh lễ Phật và Cha, Ngài cũng chỉ cười và nói êm cho nó hiểu rằng “đảnh lễ Cha mới đến nơi con”. Về niệm Phật, niệm Cha cũng thế. Không nói thẳng mà chỉ nói cách rất tế nhị để nó hiểu niệm danh Cha mới đúng.

Đó là cung cách, c̣n về nội dung th́ là một sự giàn ḥa lớn lao: xưa nay tôn giáo với khoa học hầu hết ở thế đối nghịch. Tôn giáo th́ chỉ biết có tin, tin đến mê tín. C̣n khoa học th́ chỉ biết có lư, lư đến duy lư, duy trí, bám sát vào mớ ư niệm của sự vật. V́ thế cả hai không hợp nhau được. Nay đến lượt Vô vi th́ t́nh thế rất lơ mơ vừa muốn là khoa học nhưng lại thêm tiếng Phật giáo và danh hiệu thành ra cái tên dài tḥng một cách vô duyên và tự mâu thuẫn. Đă là tôn giáo th́ phải tin cả những điều lư trí chẳng hiểu ra sao cả thí dụ Adiđà là ai? Tây phương cực lạc có thật chăng, v.v... chưa biết vậy mà phải tiên thiên chấp nhận th́ hẳn là trái với khoa học không buộc tin ǵ mà chỉ có việc thực nghiệm và chứng minh để đạt tới sự minh hiển khách quan và phổ biến. Nói chung không tôn giáo nào có tính cách khoa học, ít hoặc nhiều, phần lớn là nhiều, đều chứa lu bù mê tín. Và đấy là yếu tố cản đường không cho các tôn giáo hợp được với nhau. V́ muốn ḥa hợp phải t́m ra điểm quy tụ có tính cách khoa học theo nghĩa tốt nhất tức là phổ biến tính: ở đâu và bao giờ cũng vậy, kiểu luật vật lư hay toán học. Điểm đó trong tôn giáo hay triết lư phải là Vô vi thứ thiệt. Tuy Đức Phật tỏ ra đă ư thức điều đó khi tuyên bố lấy Thái Hư làm nền siêu h́nh, nhưng đạo Phật truyền đến đời ta không c̣n tinh tuyền Vô vi mà đă đẩy Hữu vi dị đoan mê tín rồi, thành thử cố buộc Vô vi vào với Phật tất mắc sẹo.

May thay Kim Thân Cha đă đem đến cho Vô vi một chiều kích mới đó là nền triết lư gắn liền với Minh Triết, nên có tính cách phổ biến đầy khả năng làm nơi quy tụ mọi tôn giáo, đạo pháp hay cả triết lư nữa như đă bàn sơ qua ở trên khi nói về cơ cấu. Như vậy là thêm cho Vô vi chiều kích Lư nữa, Lư viết hoa tức thứ Lư mà khi ḿnh đạt được th́ vạn lư thông. Cái lư đó khiến Vô vi trở nên một Pháp lư hoàn bị: không những có Pháp chính tông mà c̣n có cả Lư siêu diệu đủ sức ḥa giải được tôn giáo với triết học và đó là đầu mối cho mọi cuộc ḥa giải khác.

5. Triết lư đang hướng đến Vô vi

Đó sẽ là b́nh minh cho một kỷ nguyên mới làm bằng ḥa hợp yêu thương mà loài người đang mong đợi, nhưng cho tới nay chưa làm sao thiết lập được v́ then chốt nằm trong triết học và tôn giáo. Triết có ḥa hợp được với nhau trước rồi với các tôn giáo sau th́ mới có các ḥa giải khác. Vậy mà hiền triết c̣n đang chia rẽ trầm trọng. Người ta hé nh́n thấy căn do ở tại tính chất cơ khí của triết học tức triết c̣n nằm trọn vẹn ở đợt hiện tượng như khoa học. Muốn đạt thân triết học phải mặc được tính cách cơ thể: ḥa hợp được Có với Không, siêu linh với hiện tượng: hai đàng phải xoắn xuưt với nhau một cách cơ thể.

Hiện nay nền triết này đă thấy manh nha bên Âu Mỹ, rơ nhất có lẽ nơi triết gia Mỹ ông Whitehead. Người ta đă t́m xem triết cơ thể này đă được gợi hứng từ đâu và đă t́m thấy dấu vết của nó qua thuyết “đột biến” (emergen evolution) của Lloyd Morgan và Smut, rồi lần lên qua thuyết biến hóa của Darwin, rồi qua thuyết không mâu thuẫn (noncontradiction) của Hegel (hiểu ngầm là vừa có vừa không một trật mà vẫn không mâu thuẫn), rồi lên nữa đến Leibniz, sau đó thấy bặt tăm. Thế là phải kết luận nền triết cơ thể mới bên Âu Mỹ được gợi hứng từ Nho. Nhưng nền Thái Ḥa mà Leibniz đưa ra chưa hẳn có tính chất cơ thể: nó chưa đạt thân: cơ thể phải tự nội, nội khởi, c̣n đây phần nào nó giống với số phận Thái Ḥa tiền chế (Harmonie préétablie của Malebranche) tức do Thiên Chúa xếp đặt trước (préétablie) bên ngoài sự vật chứ không phải Thái Ḥa nằm ngay trong sự vật như trong cơ thể chính tông, triết lư “cơ thể” này thiếu chất tâm linh không thể phát triển mạnh đủ để trở thành một nền triết lư nhân sinh chung cho cả mọi người trong nước, mới chỉ là một kiến trúc lư trí được thông báo trong giới đại trí thức như một đề nghị, một ước mong, mới là trí lư mà chưa là trí tuệ.

Tuy nhiên cũng phần nào giúp cho con người hé nh́n ra nó phải t́m ở đâu như được chứng tỏ trong hội nghị quốc tế triết học Honolulu năm 1949 quy tụ đại biểu triết học của khoảng 50 nước trên thế giới. Sau nhiều ngày bàn luận hội nghị đă đi đến việc bầu Khổng Tử làm nhạc trưởng (chef d’orchestre) để giữ đũa nhịp điều khiển cuộc ḥa tấu Đông Tây đạo đời. Đó quả là một sự vẻ vang cùng cực cho triết Đông, nó đă đến cách êm thắm kiểu “bất chiến tự nhiên thành”. Nhưng thành trên lư thuyết mà chưa thành trên sự thực, là v́ Khổng hăy c̣n nằm tê cóng trong các sách vở Hán Nho, chưa được gạn lọc để xuất hiện như là Nguyên Nho hay đúng hơn là Việt Nho. Điều này chỉ mới xuất hiện ở miền nam Việt Nam, do vậy mới thấy được lư do sâu xa của việc chọn lựa kia. Lư do hội nghị đưa ra là v́ Khổng Tử có chân đứng trên cả hai tàu: tàu vật chất khoa học lẫn tàu tâm linh. Nhưng lư do sâu xa nằm cả bên ngoài ư thức của mọi người th́ đó chính là tính chất Vô vi cao độ nơi ông, nhờ ông đă hiện thực được chữ Trống của Đạo Việt làm cho Nguyên Nho đă đạt được bốn cái Không (tứ vô) như Vô vi nay:

Không chùa chiền miếu mạo.

Không cầu cúng lễ bái.

Không hàng tư tế sư ni.

Không có tổ chức.

V́ những cái Không này nên Nho không là tôn giáo, nhưng lại có tính cách tâm linh, nên là triết lư mà vẫn gây ảnh hưởng kiểu tôn giáo, tức là một trường hợp họa hiếm trong dĩ văng. Không may chiều kích tâm linh này các Nho gia tự Hán về sau đă mất ư thức, tuy c̣n sống được ít nhiều nhưng sống cách vô thức, chính v́ thế mà đũa thần chỉ huy giàn hoà tấu đă được hội nghị ưng trao vào tay Nho, nhưng Nho chưa đủ sức tiếp nhận v́ thiếu sự nhận thức ra nét đặc trưng của ḿnh.

Nay Kim Thân Cha xuất hiện cũng trong chiều hướng lưỡng thê nó, trần mà không trần, nhưng được đẩy lên một bậc cao sâu hơn: một đàng cũng tứ vô: nên không là tôn giáo, nhưng lại có tính chất tôn giáo rất mực. V́ khi hiểu tôn giáo là kết hợp với Chúa, với Thượng Đế th́ khó ḷng có đâu b́ kịp với Vô vi, nơi mà siêu linh hiện thân sống động, cũng như với phép niệm Cha, thường niệm, vô biệt niệm, con người lúc nào cũng cảm thấy như được nối kết mật thiết với Cha Trời. Chính v́ chỗ này mà tôi cảm thấy lễ tế Thiên được phục hoạt và phổ biến ra trong dân chúng cách mỹ măn. Xưa kia v́ là chế độ quân chủ độc tôn nên việc tế Thiên dành cho một ḿnh vua chủ sự thay cho toàn dân. Nay là thời dân chủ th́ hết mọi người phải được tế thiên trực tiếp. May thay qua Pháp lư Vô vi ta có được cách tế thuận lợi và thắm thiết vô cùng đó là việc thường niệm, vô biệt niệm danh Cha. Nhờ vậy Pháp lư Vô vi (qua quyển Chơn Lư) vừa là triết học và đồng thời rất siêu linh và đầy ắp t́nh người. Xưa rầy triết học hầu hết chỉ là triết học trừu tượng nằm ch́nh ́nh bên ngoài đời sống, chứ không có minh triết vốn gắn liền với cuộc đời. Hoặc chỉ có minh triết kiểu Nho mà không có triết học đi kèm, tức không có phân tích, lư luận, mạch lạc. Quyển Chơn Lư kiêm cả hai, vừa lư luận sát nút mà vẫn đi liền với minh triết siêu linh, nên cũng giống Việt Nho “có chân trong cả hai tàu”. Quyển Chơn Lư chính là một thứ kiện chứng cho Việt Nho; nhiều lần Nho c̣n được gọi tên ra để được đề cao cách minh nhiên, đến độ nhà xuất bản quyển Kinh đă để mấy lời sau trên đầu sách: “Kỷ niệm t́nh huynh đệ xiết chặt giữa “Minh Đức Nho giáo” và Pháp lư Vô vi với niềm tin tưởng t́nh huynh đệ sẽ nới rộng thân ái, ḥa đồng với tất cả các giáo phái tu trên thế gian, thuận theo Thiên ư (cơ quy nhứt, tam giáo quy nguyên, ngũ chi hiệp nhứt)”.

Mấy câu trên của ngưới ấn tống quyển Kinh đáng được coi như lời lưu niệm của một cuộc An ḥa mà loài người đang mong ước từ trước tới nay nhưng chưa nơi nào đạt tới, trừ trên mảnh đất Việt Nho nhưng không được chói chang như lần này. Đây sẽ là nền An ḥa đầu mối giữa tôn giáo và triết học. Đây quả là một hiện tượng lớn lao: xưa nay tôn giáo vẫn ghét triết, nhiều triết gia đă bị tôn giáo sát hại. C̣n triết th́ vẫn khinh tôn giáo, coi như cái ǵ đầy mê tín dị đoan không xứng đáng cho người học triết để ư... Đến nay Pháp lư Vô vi xuất hiện như một chữ Ḥa: Pháp là một thứ tôn giáo đă tiến đến đợt cao nhất trên đường tâm linh. Nh́n lại từ lúc loài người phải cúng thần bằng thịt người, rồi dần dần thay bằng thịt thú vật. Sau cùng như trong đạo Phật mới đạt tới độ cúng bằng hoa trái. Vậy đă là cao nhất cho tới nay. Bây giờ Vô vượt một đợt là không c̣n cúng ǵ bên ngoài nữa hết, bàn thờ Vô vi chỉ c̣n là đỉnh đầu: kinh hạt chỉ c̣n là danh Cha được thần niệm.

C̣n triết đă vượt lư trí để vào tâm linh, nên không c̣n khô khan trừu tượng, nhưng là thứ triết đầy ắp t́nh người, đồng thời thấu tận minh triết siêu diệu. Đúng là có chân trên cả hai tàu nhưng cách sống động đầy linh hoạt: quả là xứng đáng đứng lên nắm lấy đũa chỉ huy của nhạc trưởng để điều khiển cuộc ḥa tấu giữa Đông Tây, Kim cổ, giữa khoa học với đạo đức, giữa triết học với tôn giáo....

Người ta nói: “tư tưởng hướng dẫn thế giới”. Vậy mà tư tưởng chính là triết đó, v́ triết chẳng qua chỉ là tư tưởng thấu triệt nhưng được hệ thống hóa. Cho nên đắc thắng trên mặt trận triết là một cuộc thắng vĩ đại hơn hết trong văn hóa loài người vậy.

6. Những điềm triệu bên ngoài

Đạo lư đă vậy mà ta c̣n thấy nhiều điềm triệu bên ngoài thí dụ vụ tỵ nạn của người Việt chúng ta từ năm 1975: ông Trời coi lơ mơ vậy mà khôn đáo để, khéo sắp xếp để tung chiến sĩ khắp nơi. Đă vậy c̣n ích kỷ thượng hạng nữa chứ: tung đi cả ngàn vạn cán bộ khắp năm châu mà không chịu bỏ ra lấy một xu, giá đem điều này mà trách cứ chắc sẽ được nghe trả lời: “Cha có xu nào mà bỏ hở con, con phải biết Cha Vô vi mà lại, mà Vô vi cũng là vô xu, nhưng có vậy mới diệu hữu chứ con. Con chê Cha là ích kỷ th́ Cha nói thêm Cha là kẻ đại ích kỷ, có vậy mới dậy được con biết mậu kỷ. V́ xưa rầy con toàn nghĩ đến tha vật chứ có chịu nghĩ đến cái Kỷ của con đâu để mà mậu kỷ (mậu kỷ là vun bồi cho hồn ḿnh nên tốt tươi, trong Nam đọc mồ kỷ), mà không mồ kỷ th́ làm sao con trở nên chiến sĩ đắc lực của Cha. Con có thấy chưa cờ Vô vi đă bay phất phới khắp nơi rồi đó mà Cha chưa đủ chiến sĩ. Sao con không làm chiến sĩ của Cha và đi t́m thêm chiến sĩ cho Cha.

- Vâng con sẽ đi t́m nhưng Cha nói cờ Vô vi đă bay phất phới mà cờ ở đâu? Sao con không thấy? Đă Vô vi th́ làm sao c̣n có cờ hở Cha?

- A! Không có mà có đó con: trong Không mà Có mới là Vô vi. Cờ Vô vi đang tung bay kia ḱa con không thấy sao? Chính là lá cờ của quốc gia Việt Nam chúng con đó, cũng mang bộ số 2, 3, 5 như Vô vi nên cũng gọi được là cờ Vô vi. Khi con soi hồn chính là lúc con kéo cờ Vô vi lên đó và rồi con cũng chào cờ, chào cách trịnh trọng bằng cả hai tay. Ba ngón tay bịt tai, mắt, trán, đang khi hai ngón kia bỏ thơng xuống. C̣n số 5 là lúc con làm pháp luân để khử trược lưu thanh ngũ tạng của con: con hiểu vậy chưa? Ngũ tạng là số 5 đó.

- Thưa Cha đúng rồi những con có thấy bộ ba số này trong cờ Việt Nam chúng con đâu?

- Có chứ con, đây này để Cha chỉ cho: số 3 là ba gạch đỏ đó, c̣n số 2 ẩn trong màu đỏ. Màu đỏ theo cung ngũ hành chỉ phương Nam số 2, vậy chả có số 2 là ǵ? Số 2 (màu đỏ) chỉ mạch nhâm mạch đốc đặt trước số 3 chỉ Tinh, Khí, Thần, th́ tức là lá cờ gồm ba số 2, 3, 5 là cờ của Vô vi cũng là cờ của chúng con, nó hàm ư rằng Việt Nam có nghĩa là vượt đến chỗ văn minh, vượt đến bến giác chỉ bằng lửa đỏ quẻ Li ở phương Nam đó.

- Thưa Cha vậy c̣n số 5?

- Số 5 à? Đó là màu vàng trung cung hành Thổ số 5 cũng gọi là ngũ hoàng cực hay ngũ phúc. Nếu con người tiến đến được đúng trung cung (số 5) th́ ngũ phúc sẽ lan tỏa khắp hoàn cầu mà trong lá cờ chỉ bằng màu vàng lan ra khắp hết: Con hiểu vậy chưa? Cho nên mỗi khi con thấy lá cờ nền vàng ba sọc đỏ th́ con phải nhớ đấy cũng là cờ Vô vi, đấy cũng là cờ tiên phong của thế giới đại đồng và lập tức con phải niệm hồng danh Cha: thường niệm, vô biệt niệm. Lá cờ giúp con nhớ điều này. Vậy con hăy nhủ ḷng rằng: ḱa! Cờ đă phất lên rồi đang tung bay khắp năm châu bốn bể sao tôi c̣n ù ĺ bê trễ chưa mạnh dạn hăng say đứng lên chào cờ, và làm việc theo mệnh lệnh của cờ...”

Trên đây là đoạn Việt Nam tôi mạo muội bắt chước lối văn Bửu Kinh mà tôi cực kỳ yêu mến, một quyển kinh có lời văn cao siêu nhưng lại thân mật có lúc như dí dỏm. Nếu đức Di Lạc có nói hay viết chắc cũng theo lối văn này nên tôi đánh bạo nhái chút cho hợp tinh thần tự An vi tới Vô vi.

Tóm kết: xét về nội dung ta thấy Vô vi đă nhiều lần xuất hiện dưới những h́nh thái khác với những danh nghĩa khác và đă tỏ ra linh hiệu rất mực, huống chi lần này lại xuất hiện công khai trực chỉ với tên Vô vi và đă tỏ sự hiệu năng kỳ lạ mà nhiều người tu Vô vi đều được chứng nghiệm; c̣n phần Hữu vi th́ việc an bài của Thượng Đế vượt quá sức tưởng loài người: chỉ sau khi xảy ra chúng ta mới thấy phần nào. Thí dụ sứ mạng được trao cho những con Việt để lo Cơ Quy Nhất với sự hiện diện của người Việt khắp năm châu là điều trước kia không ai dám nghĩ tới. Một nước nghèo xác sơ lấy tiền đâu mà tung cả từng vạn chiến sĩ ra khắp hoàn cầu. Vậy mà Cha Trời đă làm rồi đó, không tốn một xu. Như thế ta chỉ c̣n biết ngợi khen Cha Trời chẳng cùng và tận tậm tận lực thi hành theo sự sắp đặt vi diệu của Người.

Kính Lạy Ngọc Hoàng Thượng Đế Vô Cực Đại Thiên Tôn

PHỤ TRƯƠNG:

 

 

VII. Những hàm ngụ trong Tây Du Kư

 

 

Tổ Huệ Năng (638-713) kể là cuộc cải cách cuối cùng của Phật giáo trên đất Việt Nho. Tính đến Vô vi có trên 12 thế kỷ không thấy c̣n ghi được cuộc cải cách nào. Nhưng những điều cần cải cách th́ c̣n nhiều như ta đă thấy trong Vô vi. Trong quăng hơn một ngàn năm đó có một cuộc cải cách “ước ao”, hiện thực bằng tưởng tượng như được ghi lại trong quyển Tây Du Kư của Ngô Thừa Ân (1508-1568). Nhưng cuộc cải cách được nói kiểu bóng bẩy quá không ai thấy được. Vậy xin bàn sơ qua ở đây.

Tây Du Kư là quyển tiểu thuyết có chủ đề, lấy việc thầy Huyền Trang đi Tây Trúc thỉnh Kinh làm cốt truyện. Đó là sách châm biếm đạo Phật đến độ ngạo nghễ, hay muốn nói hoằng dương đạo Phật như người ta quen t́m cũng được, nhưng hoằng dương kiểu khác thường tức dùng ư niệm Vô vi để đả phá tất cả những ǵ hữu vi sắc tướng trong Phật giáo và Lăo giáo.

Người ta không thấy thế v́ quá quen với kỷ niệm hiển vinh về thầy Huyền Trang đi thỉnh kinh, nên khi đọc truyện Tây Du Kư đă tin xuôi ngay rằng Tam Tạng đại biểu cho thầy Huyền Trang, có ngờ đâu rằng Tam Tạng chỉ là một nhân vật tiểu thuyết được Ngô Thừa Ân dựng nên để đại biểu cho hạng người cực kỳ hữu vi, hữu vi cách đặc biệt bằng lối tu tụng kinh mà không chịu t́m hiểu ư nghĩa, v́ thế mang tên là Tam Tạng, được giới thiệu là tu lâu đời nhiều kiếp, lên đến bậc đệ tử thứ nh́ của Phật, thế mà lúc chuyển kiếp vẫn c̣n tỏ ra ngu như ḅ: Ngộ Không giết 6 tên cướp th́ om ṣm phản đối, không hiểu được đó chỉ là biểu tượng của lục căn lục trần, không giết chết chúng th́ tu (nói bóng là đi thỉnh kinh) cái nỗi ǵ? Quả thực Tam Tạng chưa đáng xách giầy cho Ngộ Không, Ngộ Tịnh. Riêng Tam Tạng đầu óc chứa chật ních chữ chết khô chứ chẳng ngộ được cái ǵ cả, ḷng c̣n đầy tham, sân, si: mất ngựa đă khó, mất cái áo cà sa lại càng khóc đậm: trằn trọc cả đêm không ngủ đi được, rồi quay ra sân hận thả dàn, hơi tí niệm chú cán cô làm khổ Ngộ Không. Vậy mà được làm thầy chẳng qua nhờ vào cái hữu vi là quyền đạo ban cho chức tước, tiêu biểu bằng áo cà sa và cái ṿng xiết cô biểu thị sự chuyên chế của hàng tăng lữ. Cái ṿng này do chính Phật Thích Ca trao cho Quan Âm, Quan Âm lại trao cho Tam Tạng rồi Tam Tạng đánh lừa (bằng bất chính ngôn) để Ngộ Không đội lên đầu đặng bắt làm việc như ư ḿnh.

Tại sao lại có t́nh trạng trớ trêu là tṛ vượt xa thầy như vậy? Cần xem đường lối tu mới hiểu được. Cứ xét tội của Tam Tang phải luân hồi th́ biết đó là tội chểnh mảng bỏ việc nghe giảng kinh. Câu ấy cho ta biết lối tu của Tam Tạng ra sao. Đó là lối tu tụng kinh gơ mơ chứ không chịu nghe giảng để thấu hiểu thâm ư sâu xa của kinh, nó không nằm trong chữ nghĩa sách vở mà lại nằm trong chính tâm ḿnh. V́ không theo như vậy nên bị luân hồi để làm một việc ngược hẳn với tụng kinh là đi thỉnh kinh vô tự. Tụng những ba tạng kinh gồm trên 15 vạn quyển với cả hàng nhiều trăm triệu chữ, vậy mà bây giờ c̣n bắt đi thỉnh Kinh sao? Tại đâu lại có sự trái ngược như vậy? Thưa v́ đây là bí quyết của sự thành công của việc tu luyện đích thực nó ở tại phải đi vào đến chỗ chân không mới đạt diệu hữu. Hăy coi gương Ngộ Không tuy là cốt khỉ nhưng nhờ lối tu Vô vi, truyện gọi là “ngộ được tạo không” nên quyền phép trí lự vượt xa Tam Tạng cả ngàn lần, nếu đo bằng mức đi nhanh th́ phải nói cả triệu lần. Đường đi Tây phương Ngộ Không đi về một ngày được 50 lần, hai tṛ kia phải mất 10 ngày, c̣n Tam Tạng đi cả ngàn kiếp chưa chắc tới, tức kém Ngộ Không đến triệu lần.

Ấy chỉ v́ Ngộ Không đă học được bộ cơ cấu của Việt Nho là ngũ hành. V́ cái học của Ngộ Không ở măi đợt 5 bên trên 4 bậc kia là:

Chữ thuật: biết nói tiên tri

Chữ lưu: biết kinh sách (lối tu của Tam Tạng)

Chữ kinh: biết tọa thiền

Chữ động: biết hành thiền

Vô tự vô ngôn, tức thầy không nói nữa, mà chỉ gơ đầu Ngộ Không 3 cái rồi chắp 2 tay sau lưng đi vào pḥng đóng cửa lại. Đó là phảng phất lối tu tâm đạo nhưng bí truyền rồi thất truyền nên người sau không biết cách xếp đặt ra sao: có phải soi hồn chỉ bằng gơ lên đầu 3 cái chăng? Chỉ biết rằng nó không ra ngoài bộ cơ cấu vài ba (gơ 3 cái chắp 2 tay lưng: nhớ Ngũ Tổ Hoằng Nhân đến xem Huệ Năng đang giă gạo cũng gơ vào cối 3 cái rồi bỏ đi). Nhờ bộ cơ cấu 3-2 trong tâm pháp bí truyền đó mà Ngộ Không sau này mới đủ khả năng dẫn phái đoàn đi thỉnh Kinh, và cuối cùng đă thành công đạt được Kinh Vô tự,  có nghĩa là ngộ được đạo Không. Nhờ đó mà cả nhóm được thăng tiến.

Tam Tạng được thăng chức “chiến đàn công đức Phật” với lời khen “thậm hữu công quả” v́ đă thỉnh được chân kinh.

Ngộ Không được thăng chức “chiến đấu thắng Phật” với lời khen biết “ẩn ác dương thiên” và nhất là “toàn chung toàn thuỷ”. Đọc qua ai cũng thấy Tam Tạng quả vị thấp hơn Ngộ Không nhiều lắm. V́ “thậm hữu công” là thỉnh được Chân Kinh. Mà thực tế th́ hỏi ai có công trong việc này nhiều hơn nếu không là Ngộ Không.

Chí như quả vị Ngộ Không th́ trung thực không ai tranh vào đấy được, tức đă vượt công quả để tiến đến những cái tế nhị thuộc “công tŕnh” khó hơn nhiều, như “ẩn ác dương thiện” và nhất là “toàn chung toàn thuỷ”= khởi đầu đă trọn mà kết quả cũng trọn.

Để hiểu được cái khó khăn ở chỗ này ta nên nhớ lại 4 bước chân tu là định, tĩnh, an, lự. Phần đông tu được 2 bước đầu tưởng là đă hết rồi ở ĺ lại đó mà không dám tiến lên bước thứ 3 là an, thứ 4 là lự.

Nói khác phải tu 2 bước đầu cho thấu triệt: định phải đuợc vững chắc mà tĩnh cũng phải trọn vẹn th́ mới ngộ được Chân Không. Nếu không định tĩnh trọn hảo th́ chỉ đạt cái không tiêu cực tức là không có ǵ hết phải định tĩnh triệt cùng mới đạt Chân Không, mà có Chân Không mới đạt Diệu Hữu là các cấp tiến cao hơn như Tề Thiên. Thường nhiều người ngưng ở 2 đợt đầu là chỉ yêu có thanh, không dám tiến thêm để biết trược. Tưởng là đă biết trược rồi mà không phải. V́ mới biết trược từ trược, chưa biết trược từ thanh. V́ lầm thế mà ngừng lại, nên có thuỷ mà không có chung. Muốn có thêm chung th́ phải bước thêm 2 bước An Lự: “phải chiến thắng tư tưởng ĺa trược để yêu trược, muốn đi xuống trược để biết trược trở lại” (Chơn Lư). Tôn Ngộ Không đă được chức Phật chiến thắng v́ đă dám chọn học 72 phép địa sát là học trược từ thanh. Thanh là đă Ngộ Không, bây giờ học trược để thể hiện tinh thần Di Lạc an vui là tinh thần của những vị đă đi hết định tĩnh bắt đầu đi xuống để an lự.

Tam Tạng có công thỉnh được Kinh Vô tự. Bây giờ nếu khéo tu theo Kinh Vô tự để Ngộ được Không, th́ có ngày sẽ lên được chức Tôn Ngộ Không, rồi trải qua những giai đoạn học 72 phép địa sát với những thăng trầm của nó, lúc ấy và chỉ lúc ấy thôi mới đạt chức “chiến đấu thắng Phật” và mới có toàn thủy mà cũng kiêm cả toàn chung. Chứ hiện nay với chức “đàn công đức Phật” th́ làm sao có được hai chữ ‘toàn chung’. Chưa toàn chung, mà cũng chưa cả toàn thuỷ. Chân đă ĺa đất mà đầu chưa đội được trời. C̣n lơ lửng giữa không trung: trầm không u tịch kiểu duy thức vậy thôi.

VIII. Từ đốc hành đến hoá nhi đa hí lộng

1. Age Quod Agis

“Hăy làm cái mày đang làm”. Đó là khẩu hiệu mà nhiều Đại học trung cổ Âu Châu áp dụng bằng cho một người cầm gậy đi quanh lớp lâu lâu nói lên câu đó để giúp thính giả chú tâm vào đề tài. Việc đó tỏ rơ tầm quan trọng cực kỳ của sự tập trung tâm ư. V́ quả thật nó là mấu chốt cho các việc vĩ đại. Vĩ nhân là người có khả năng dồn trọn chú ư vào công việc đang làm. V́ vậy mà Việt Nho nói: “Quân tử vô sở bất dụng kỳ cực” = người quân tử không làm cái chi mà không làm đến chỗ cùng kỳ cực của nó. Cứ xem việc học th́ đủ rồi: để thi hành khẩu hiệu “cùng kỳ cực” Trung Dung đưa ra đến năm bước là: bác học, quảng vấn, thận tư, minh biện và đốc hành. (T.D.20)

Đốc hành là đợt cuối cùng, Đốc đây là để cả tâm trí nghị lực vào việc, không cái ǵ không được đưa vào. Triết lư An vi muốn cho đốc hành đạt độ cùng cực trên mọi mặt nên đặt việc lư tưởng lên đợt an hành bên trên lợi hành và cưỡng hành. V́ cưỡng hành là làm v́ sợ (sợ trời đánh thánh vật), lợi hành làm v́ lợi v́ danh, những động lực đó đều ở bên ngoài nên làm giảm bớt sự chú tâm vào việc. V́ thế phải là an hành không chú tâm vào đối tượng vào mục tiêu nữa mà dồn mọi năng lực vào chính việc đang làm để trong một lúc chỉ làm một việc.

Vậy theo Việt Nho th́ việc nào đáng làm hơn hết? Thưa đó là tu thân. Bởi Việt Nho đă định nghĩa con người là tác nhân, tức bản tính nó làm bằng tự tác hành, nên việc nào giàu tính chất tự tác tự hành hơn hết th́ đó chính là việc triển diễn bản tính của nó hơn cả, nên đáng làm cách chú tâm hơn hết. Mà cách chú tâm hơn hết th́ không bằng tu, v́ tu là việc đầy công phu mà lại không nhằm lợi lộc ǵ trước mắt, chính v́ thế mà nó giàu chất tự động nên đầy khả năng triển diễn bản tính người. Việt Nho đă đưa ra một nguyên lư mà giới Nho học Tây Âu cho là kỳ diệu: nguyên lư đó là hết thảy mọi người tự vua tới dân đều phải lấy việc tu thân làm bản gốc: “tự thiên tử dĩ chí ư thứ dân: nhất thị giai dĩ tu thân vi bản” (Đại học câu 1).

Đó là về mặt Việt Nho, c̣n khi xét về Vô vi th́ Việt Nho cũng đă hiện thực 4 bước trên: là đọc các sách cần thiết, hỏi han kỹ lưỡng từ ông Tám trở xuống, rồi suy nghĩ đối chiếu sâu rộng, đoạn phân tích tỉ mỉ và thấy đó là lối tu rất đáng thi hành. Vậy bây giờ c̣n lại bước cuối cùng là làm, mà đă làm th́ phải đốc hành, phải an vi, tức phải làm đến cùng kỳ cực: cho hợp câu “quân tử vô sở bất dụng kỳ cực”.

Vậy đó cũng là cung cách cả Vô vi. V́ Vô vi nay không như vô vi xưa chuyên có mặt thanh mà lánh mặt trược, c̣n Vô vi mới y như An vi, bao cả thanh lẫn trược. An vi không tị thế không ĺa đời mà là xử thế. Vô vi nay cũng vậy: đêm công phu ngày công quả công tŕnh, nên chấp nhận câu của Việt Nho:

Thứ nhất là tu tại gia,

Thứ nh́ tu chợ,

Thứ ba (mới đến) tu chùa.

Ông Tư, ông Tám đều có vợ con, gia đ́nh, vậy mà cứ để cả mảng thế mà tu, quả là giống với An vi, bao gồm cả trong lẫn ngoài, cả nội thánh lẫn ngoại vương. Đấy là xét về phạm vi tác hành.

Xét đến cung cách hành động cũng lại giống như An vi là đưa tác hành lên bậc bản tính con người như trên đă nói về mấy phương tŕnh căn bản của Vô vi, xin nhắc lại trong bảng sau đây:

Người = hồn

Hồn = điển

Điển = tự tác

Tự tác = tiến hóa

Tiến hóa = tu

Phương tŕnh thứ nhất “người là hồn” của Vô vi hơi mạnh, coi như bỏ xác, nhưng thực sự chỉ có ư nhấn mạnh đừng lẫn hồn với xác, hồn mới là chính, mới là chơn nhơn chứ xác thân chỉ là tạm bợ nay c̣n mai mất.

Phương tŕnh 2 hồn là điển, đây là câu định nghĩa mới mà hợp thời và đă có hàm tàng trong Việt Nho với câu định nghĩa “người là thiên địa chi đức, âm dương chi tu khí”. Chữ đức, và nhất là chữ “tú khí” (cái khí thanh của âm dương) quả là nền móng cho định nghĩa người là điển (hoặc linh quang cũng thế, v́ quang là một h́nh thể của điển) tức nói lên cái gốc rễ của nó là một khối linh quang cực kỳ mănh liệt vô biên.

Phương tŕnh ba: điển là tự động, tự tác v́ điển là năng lực cường mạnh nhất trong vũ trụ, nó chỉ có máy động các cái khác chứ nó không thèm cậy ai đẩy nó. Không có điển các máy móc liền nằm ụ: hễ có điển là mọi cái đồng thời sống, động, sáng, nóng... Cho nên định nghĩa Thượng Đế là khối đại linh quang quá đúng cũng như nói hồn là tiểu linh quang chiết ra từ đại khối linh quang cũng là biểu lộ hết tính chất tự chủ của con người, v́ thế mà có phương tŕnh điển là tự tác, hoặc nói tự động là tự tác cùng tột không để chỗ nào hở.

Phương tŕnh 4: tự tác là tiến hóa. Thoạt xem hơi khó hiểu nhưng xin nhớ lại lời Bửu Kinh: con người là hồn (tiểu linh quang) xuống trần để học tiến hóa. Theo câu đó th́ mục tiêu của hồn đă rơ là tiến hóa tức là trở về với cội nguồn cực thanh tịnh của nó. Hồn ví như quả bóng đă được vất xuống thế tất phải bật lên. V́ bản tính của bóng da khi ném xuống là phải nảy lên trở lại trạng thái nguyên thuỷ của ḿnh. Đó là h́nh ảnh soi sáng cho quan niệm coi hồn là điển, nên tiến hóa là bản tính của nó, bản tính nó là t́m cách xuyên qua mọi trở ngại để về chỗ tự đó nó được ném xuống.

Phương tŕnh 5: tiến hóa là tu, nói rộng muốn tiến hóa phải tu, tức phải có tác động đầy nhân tính là tự động, tự tác như đă bày tỏ ở phương tŕnh ba. Nói vậy cũng như nói tu chính là bản tính của người. Con người muốn nên người th́ phải lấy tu thân làm bản gốc: “tự thiên tử dĩ chí ư thứ dân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bản”. Do đấy hiểu được tại sao cái tội nặng nhất trong An vi cũng như Vô vi là lười biếng và công ty của nó là giải đăi, ù ĺ, bê trễ, ỷ lại... không chịu tu hay tu không tinh tấn. Như vậy không tu là không chịu làm người, là giảm bớt nhân tính tức giảm bớt tính tự động, tự cường, tự lực, cương nghị, tinh tấn, nói vắn tắt là ư chí tự động đóng vai tṛ quyết định trong việc tu. Cũng chính v́ thế mà Vô vi không cho cầu xin sự pḥ hộ, trong lời niệm chỉ xin Thượng Đế chứng giám cho ḿnh tu đắc đạo, chứ không xin pḥ hộ sợ sinh tính ỷ lại. Thực ra xin pḥ hộ không phải là xấu, nhưng chỉ hợp cho những tŕnh độ khởi đầu, c̣n khi đă tiến cao, đến đoạn chót th́ phải tự lực tự cường để giống với Cha Trời là đấng tự thể tính trọn vẹn.

Tóm lại tu là tiến hóa, v́ tu gồm đủ các đức tính của năm phương tŕnh trên, nhất là tự động, nghĩa là không để chút sinh lực nào mà không được dùng đến. Câu trên coi như nghịch với tu cần tĩnh lặng cùng cực, nhưng thực ra không nghịch v́ nó chỉ có ư tĩnh lặng đối với trần trược, không cho trần trược phá rối hoặc ăn bớt đi chút sinh lực nào để có thể dốc trọn vẹn vào việc tu, coi đó là việc đi lên đặng về tới nguồn của nó, y như bản tính nước là chảy xuống th́ bản tính hồn là đi lên. Không đi lên, nếu ít th́ là giảm bớt hồn, c̣n không đi lên hẳn là mất bản tính, gọi là mất nhân tính, hồn tan vào cỏ cây.

Xem thế đủ biết việc tu quan trọng dường nào mà chủ chốt trong việc này là ư chí: ư chí phải tỉnh thức luôn, chỉ nghiêng đi một chút là dễ gây tai hại. V́ cuộc đời ví được với cuộc kéo cóc: bên trược bên thanh. Nói chi tiết hơn th́ bên trược kéo xuống có hai đại diện là danh và lợi. Bên thanh kéo lên cũng có hai là trí và nhân tức yêu thương và sáng suốt. Hai bên ngang phiếu chỉ c̣n ư chí, hễ bên nào kéo được ư chí về ḿnh là có nhiều chiều nắm phần thắng. Thế mà ư chí th́ chuyên môn lè phè, thực ra đi lên th́ muốn chứ, nhưng phải cố gắng lắm mới rút ra khỏi những mời mọc của phe trần cấu, nó ve văn, khuyên lơn, nó quyến rũ, đút lót đủ thứ. Chính v́ chỗ ư chí cứ lơ mơ thay đổi bấp bênh nên tu trở thành họa hiếm và trong số họa hiếm đă dứt khoát tu th́ nhiều trường hợp c̣n tu hú nghĩa là tu mà không tu. V́ thế cần phải xét tới công hiệu của sự tu để thấy rơ chỗ lợi hại.

2. Tu là hạnh phúc, Trần là điêu linh

Ta thường nghe nói:

“Tu là cơi phúc, T́nh là giây oan.”

Nhưng câu này có nghĩa hẹp: cơi phúc thường hiểu liên quan đến chùa chiền hoặc ḍng tu nào. C̣n t́nh hiểu là kết hôn lập gia đ́nh được coi là đối chọi với việc tu, cho nên cái nghĩa nó hẹp lại không thể đúng vào việc “tu thân vi bản” của Việt Nho hay “phước huệ song tu” của Vô vi. V́ thế xin đưa ra câu có tầm mức phổ biến trên: “tu là hạnh phúc, trần là điêu linh

Hăy xét vế sau: “trần là điêu linh”. Xin nhắc lại quan niệm Vô vi về nguồn cội con người là “tiểu linh quang tách khỏi đại khối linh quang xuống trần để học bài tiến hóa”. Nói thế có nghĩa là hồn cần rất nhiều bài học từ trược tới thanh, mà hễ trược là đau khổ: trước hết là thân xác: “Hữu thân hữu khổ”, v́ có thân xác tất phải có ăn, mặc, ở, đi lại là những cái chứa nhiều đau khổ, cũng như trải qua sinh, bệnh, lăo, tử... nhà Phật gọi đó là tứ khổ, bát khổ, v.v... Cho nên người ta gọi thân xác là của nợ quá đúng. Thế mà đă xong cho đâu c̣n tai nạn thiên nhiên: mưa nắng, băo lụt... và nhất là tha nhân. Có triết gia đồng hóa với hỏa ngục: “tha nhân là hỏa ngục”. Câu này quá đáng nên xin sửa lại: 1/3 tha nhân là hỏa ngục, vậy cũng nghẹt thở rồi. Huống chi c̣n cái vụ nghiệp nữa: nghiệp riêng đă vậy c̣n cả nghiệp chung làm cho đường đời đầy điêu đứng cam go. Thế mà con người có chút giác thức để ḍ đường th́ lại bị trược hóa hầu trọn, nên nhà Phật gọi là vô minh.

C̣n ư chí th́ bị lôi kéo quá thành ra yếu x́u. Quả thực đời là bể khổ, là cảnh trầm luân, là điêu linh đủ thứ. Cho nên suy nghĩ về đời nhiều người quay ra trách trời trách đất tại sao lại dựng nên ḿnh? Có triết gia trách cha mẹ lúc sinh ra chẳng hỏi ư kiến ḿnh xem ḿnh có ưng ra đời chăng?...Thiệt cả là một lũ cù lần hạng nặng. Con người thực tế sẽ không trách than như vậy v́ vô ích, đàng nào cũng hiện diện thù lù ở đây rồi, có mà trời trốn. Thôi chỉ c̣n có phép thoát khỏi cơi trần ai này mà thôi. Làm thế nào đây? Người đời đă thử đủ mọi cách cả danh lợi, chức trọng quyền cao, kể cả tự tử nữa. Nhưng tất cả đều kết cục bằng hư vô, tất cả đều là ngơ cụt. Cuối cùng chỉ c̣n một lối là tu, không c̣n lối nào khác, nhưng được cái may là lối này vừa ḥa giải được đau khổ lại vừa đưa đến phúc lạc vô cùng.

Tại sao lại được như thế? Hăy nhớ lại các câu định nghĩa người bằng năng động tính, tức cũng là tự tác hành, tự tiến hóa. Cho nên tiến hóa không phải là thể tính phụ thuộc của con người, tức con người muốn tiến th́ tiến, muốn tà tà ở ĺ lại tuỳ ư. Trái lại nó phải tiến v́ bản tính nó đ̣i như vậy, y như gió phải thổi mới c̣n là gió thế nào th́ người cũng phải tu tiến mới c̣n là người thế ấy. V́ vậy hễ đă sinh ra là người th́ phải tiến: tiến hóa trở thành bó buộc tự trong bản chất. Đúng hơn tiến hóa là bản tính của con người mà cái ǵ làm theo bản tính là gây hạnh phúc, v́ hạnh phúc là sự cảm nghiệm sung sướng trong việc đáp ứng nhu yếu thâm sâu của bản tính ḿnh. Nếu bản tính là tiến hóa th́ hễ tiến hóa là đặng phúc. Và v́ tu là tiến hóa nên tu là hạnh phúc, bởi thế mới nói tu là cơi phúc. C̣n không tu th́ tất nhiên là nguồn mọi đau khổ. V́ không tu tiến th́ đă có luật nhân quả lôi đi, bị lôi đi th́ ở trong thế thụ đặng. H́nh thái thụ động là đau khổ, thụ động nhiều, đau khổ dữ. Đau khổ ai cũng sợ vậy sao không chịu tu tiến. Thưa v́ trong con nguời có ù ĺ tính do phần trược khí của xác thân gọi là lục căn lục trần, chúng họp nhau vừa níu hồn xuống, lại c̣n che lấp cái minh đức trong con người làm cho nó trở nên u mê thêm, không thấy được diễm phúc của cơi trên nên càng dễ bị sa đọa vào lạc thú của cơi hồng trần: đó gọi là si mê. Si, mê, lười... tất cả đều tŕ kéo hồn lại nên phải có luật nhân quả thúc đẩy đi lên như ngựa kéo xe, không chịu kéo th́ roi vào đít. Đó là nguồn gốc đau khổ. Vậy muốn hết khổ th́ phải tu.

Ta có thể phân tích điều kiện như sau: không tu là nguồn mọi đau khổ, nhưng tu th́ là việc cực kỳ cam go y như người trèo núi: phải khó nhọc mới đi lên được. Như vậy ta có thể quan niệm đau khổ chính là sự khó nhọc dồn cục, do sự tích luỹ các lần không tu, mà không tu là do ù ĺ, si mê nên có thể nói khổ đau là sự dồn cục các cái ù ĺ, sái bậy, si mê rồi chịu thua, vậy là đau khổ thêm. Nay muốn tránh đau khổ chỉ c̣n cách chia nhỏ sự khó nhọc ra không cho nó dồn cục lại, phương pháp chia nhỏ đau khổ là tu. Tu chính là chia nhỏ đau khổ ra mà tiêu thụ ít ít một, v́ tu quả là một việc khó nhọc nhất trong các việc con người phải làm. Trước hết v́ là việc không có động lực ngoại tại tức không có lợi nhuận vật chất nào cả, đă vậy lại không được có đối tượng hữu h́nh: phải nhắm cả mắt, bịt cả tai, đă nhắm mắt c̣n phải “nh́n” vào cơi không, thở ra hít vào cũng là hít cái không nốt. Làm việc trên cái có, tức có đối tương th́ tương đối dễ chứ làm việc trên cái không, không có đối tượng nó khó hơn nhiều, nên xưa nay biết bao người ham nói về Vô vi thế mà đến lúc làm lại đầy hữu vi sắc tướng. Điều đó nói lên sự cam go vô kể khi phải làm việc trên những cái không.

Đă vậy lại c̣n không được có động, phải ngồi im. Rồi nữa tối đến đă chả được dục th́ chớ, nửa đêm ngủ đang ngon giấc lại phải lồm cồm ḅ dậy, ngồi đó cả tiếng đồng hồ c̣n chê là ít, ấy là chưa kể c̣n chuyện ăn lạt, xa lánh những chỗ phồn hoa vui nhộn. Ôi! Quả là một cuộc khổ nạn, người ta nối khổ vào với tu thành “khổ tu” quả là đúng: phải can đảm lắm mới dám khởi công tu, can đảm hơn cả người xông pha chiến trường; ở chiến trường là chiến thắng quân địch, có đối tượng hẳn hoi; ở đây chiến thắng chính ḿnh, dễ nương tay lắm. V́ thế mà thắng ḿnh khó hơn thắng người vô kể. Tóm lại tu chính là chia cái khổ ra để tiêu thụ dần dần, không cho nó dồn cục lại để trở thành đau khổ.

Vậy c̣n nói tu là cơi phúc đúng chăng? Thưa đúng lắm: đúng ở chỗ nó hóa giải đau khổ bằng chẻ nhỏ ra để tiêu thụ mỗi ngày một chút, nên cuối cùng kể là sướng, sướng v́ không phải chịu đau khổ đă vậy mà hồn c̣n được đưa lên cơi trên đầy phúc lạc. Nói tu là khổ chỉ đúng lúc đầu, đến khi đă đắc phần nào thí dụ mở được huệ nhăn th́ lúc ấy tu lại trở thành cuộc vui bất tận, phải nói đời có tu là một cuộc hí lộng chẳng cùng.

Có thể nhận xét rằng nhiều người tu lại gặp đau khổ hơn người không tu, đến nỗi có nhiều người đâm ra sợ không dám tu, nhiều người chịu rằng tu là tiến cao: làm thành thần tiên phật chi đó, nhưng trước hết phải đau khổ đă, thế là có màn “em chả”, rồi bằng ḷng ở ĺ lại hiện trạng tà tà cho nó khoẻ, cần chi cố gắng quá rách quần. Thưa rằng đó không là trường hợp thường xuyên tức hễ tu th́ khổ hơn, mà chỉ là một số trường hợp, nhưng khi xem rộng th́ lại thấy là ân huệ do tu mà ra, tức nhờ tu mà thời gian đau khổ được rút ngắn để được giải thoát sớm. V́ con người không ai là không có tiền khiên, đă có tiền khiên th́ bó buộc phải trả quả, sớm muộn ǵ cũng phải trả cho xong, không thoát đâu được. Nếu không tu th́ trả đầy đủ nên phải trả rất lâu, nói theo nhà Phật là trả trong nhiều kiếp, nhưng có tu th́ sẽ được giải thoát sớm hơn nhiều, v́ khi tu th́ nghiệp quả được giảm nhẹ hẳn đi nên tu cũng gọi là giải nghiệp. Nghiệp được rút nhẹ th́ có thể trả mau hơn để đạt thoát giải sớm hơn. Do đó thay v́ phải trả quả trong nhiều tiền kiếp thí dụ, th́ nay dồn cả vào một kiếp để đến được giải thoát liền. Đó là ân huệ lớn lao do tự tu. V́ thiếu huệ nhăn không nh́n ra ân huệ nọ mới tưởng tu là căn nguyên của đau khổ mà không ngờ rằng tu là giải nghiệp. Nếu có đau khổ coi như nhiều hơn lúc chưa tu là tại đem cái khối khổ của bao kiếp ra tiêu thụ ngay trong một kiếp, nên tưởng là nhiều mà kỳ thực là ít.

Ta có thể hỏi rút vắn như vậy có trái luật nhân quả chăng? Thưa không, khi tu th́ nghiệp quả được rút nhẹ mà không trái luật nhân quả: chẳng qua v́ sự đổi chủ nhà: chủ trước là xác thân, chủ sau là hồn, hay nói rộng là lúc chưa tu th́ lục căn lục trần đè đầu cưỡi cổ hồn để nó làm chủ, hồn là nô. Nhờ cuộc tu mà hồn khôi phục lại được quyền làm chủ nhân ông trong bản thể, nên ngay đến lúc phải chịu trả nghiệp th́ tội quy vu trưởng. Trưởng mới là hồn chứ không c̣n là xác như trước. Xác thân chịu trả quả th́ đau đớn hơn hồn vô kể. Thí dụ anh Ất đă giết người tất sẽ bị giết để trả quả, nhưng nay anh quyết tâm tu nên thay v́ xác anh phải chết th́ nay hồn anh phải lănh những hồn không chết được nên thay v́ chết anh chỉ bị uể oải ít ngày. Tại sao vậy? Thưa là tại tội quy vu trưởng. Lúc chưa tu chủ nhân là xác nhân nay anh đă tu th́ hồn làm chủ nên khi quả báo tới th́ chủ nhân mới ra lănh nhận. Như vậy xét cho cùng tu bao giờ cũng lợi hơn rất nhiều, ấy mới là xét có mặt tiêu cực là tránh được đau khổ, chứ nếu kể tới mặt tích cực th́ tu quả là cơi phúc.

Chính v́ lư do nọ nên đau khổ có khả năng kích thích linh hồn làm cho nó thức giác được sự cần phải tu. Cũng như thức giác được rằng những lạc thú trần gian không đáng giá nhiều như lúc chưa tu tưởng nghĩ. Do đó đau khổ làm cho sự tŕ kéo bớt hẳn đi. Mỗi trận đau đớn là mỗi trận làm cho hồn cảm thấy thanh nhẹ nhiều hơn là do vậy. Đau khổ ví như những nhát dao chặt bớt những tay tuộc của cơi hồng trần giơ ra lôi cổ hồn ở ĺ lại, c̣n đau đớn là những nhát dao chặt bớt những mối giây chằng chuộc linh hồn: như vậy đau khổ cũng là tiến: tiến bằng bị thúc đẩy, thúc đẩy bằng đau khổ. Đau khổ làm cho tiến. Nhưng không thể tiến mạnh bằng tu, v́ đau khổ ở thế thụ động: thiếu chất tự động, giàu chất cưỡng ép nên không nhiều năng lực bằng tu. Tu là tự động nên là tác động đầy chất người, mà tiến nhiều hay ít là do chất người nhiều hay ít.

Tóm lại con người đă sinh ra ở đời là phải gặp đau khổ bởi nhiều nguyên do: xác thân, xă hội, thiên nhiên lại c̣n ù ĺ, si mê... không thể không gây đau khổ, nhưng đau khổ lại là những bài học cần thiết để tiến hóa. Hễ tự tu tự tiến th́ hóa giải được nhiều đau khổ, c̣n không th́ đă có luật nhân quả lôi cổ đi, mà lôi đi là bị đau khổ. Đau khổ tuy làm cho tiến hóa nhưng v́ là lối cưỡng hành nên chậm hơn, tốn kém hơn (tốn kém trả bằng đau khổ). Đấy mới là xét về đời sống cá nhân. Bây giờ xét về toàn thể đời sống. Hỏi rằng đời sống có đáng sống không, có ư nghĩa chi chăng?

3. Đời sống nôn mửa?

Đời là bể khổ, vô ư nghĩa. Tôi chẳng biết tại sao tôi lại sinh ra giữa khổ ải: sinh, lăo, bệnh, tử, lại c̣n làm khổ nhau một mẻ nữa thế rồi chết, chả ai hiểu ra sao cả. Nghĩ mà oán cái ông Trời, đang yên lành trong cái hư vô th́ lôi ngay ḿnh ra cơi hiện hữu, rồi bắt truân chuyên trả quả. Vay bao giờ mà bắt tôi trả vậy hở ông? Giá như Ông cứ để nguyên tôi trong cơi hư vô th́ làm chi có vụ vay để rồi đ̣i nợ, “tout notre mal c’est d’avoir existé”: tất cả đau khổ của ta là tại đă có, mà có ra đây chỉ tại cái ông Trời. Ông Trời xưng ḿnh là hư không mà không biết hư không, c̣n rắc rối học làm có. Có, có, có. Cha đời cái có!

Tất cả những lời trên đại diện cho vô số những lời than trách trời đất, chửi đời sống không đáng sống. Có đáng tin không? Thưa rằng hầu hết là nói láo, chỉ việc quan sát thực tế đủ hiểu. Hỏi rằng trong các người đang sống có bao nhiêu người viết như thế, chưa chừng chỉ dăm ba mạng trong cả triệu người. Rồi nữa trong những kẻ viết thế được mấy trự tin như ḿnh viết? Không chắc có đến dăm ba phần trăm chăng. C̣n phần lớn cũng như tối đại quần chúng vẫn ôm cái sống, rút ra chẳng được, h́nh phạt xử tử vẫn cho là khốn nạn. Như vậy đời đáng sống chứ c̣n ǵ. Cho nên viết chê đời chỉ là làm văn chương chứ có thật đâu.

Nhiều tay chẳng hạn c̣n tuyên bố trước là hổng thèm lên thiên đàng, nhất định ở ĺ lại trần gian để hưởng cho tận hết những “của nuôi trần thế”: “nourritures terrestres”. Có ông nói nếu được làm Thượng Đế th́ ông sẽ dựng nên những đàn ông rất sung sức, những đàn bà rất đẹp rồi, ông từ chức Thượng Đế để xuống làm người. Nhiều người không tuyên bố vậy nhưng quá 99% ôm đời kinh khủng, rứt cũng chẳng ra. Như vậy chứng tỏ đời đáng sống lắm chứ. Không đáng sống sao tối đại đa số ôm gh́ đời như kia, giục giă tu mà có được mấy ai theo đâu, ấy là tu mới bỏ có chút xíu à. Vậy th́ đời quả đáng sống mặc dầu đau khổ tràn đầy và không thể tránh được như đă phân tích ở trên, tuy nhiên con người vẫn bám dính vào đời sống, bám đến độ làm cho đời thêm đau khổ hơn nhiều. Sở dĩ người ta ham sống là quả đời đáng sống, và dù đau khổ muôn vàn nhưng cũng được hưởng nhiều lắm, là v́ đă có tu cả rồi, ít hay nhiều, tự tu hay bị tu, cũng đều là tu cả, chẳng một ai chưa tu. V́ thế mà có được hưởng. Nếu vậy có tu đàng hoàng th́ đời sẽ là một cuộc vũ tươi vui như h́nh tạc trên mặt Trống Đồng.

4. Đời là cuộc ca vũ

Quả đời là một cuộc vũ nhưng phải biết lối đi đúng như trên đă nói: đời là cuộc sống hai mặt, biết tu th́ sướng, không tu th́ khổ. Bao nhiêu những lời chê cuộc đời cũng đúng nhưng tại sao người ta không tự tử là v́ c̣n cảm thấy lờ mờ rằng có lối thoát và người ta t́m đủ thứ như tích luỹ của cải, quyền thế, danh vọng, nhưng đấy toàn là những hướng không có lối thông. Muốn thông th́ phải đi ngược hẳn lối đời.

Muốn tỏa rồng th́ phải bóp vào.

Muốn tới th́ phải lui.

Muốn bắt th́ phải buông xả.

Đường lối ngược đời đó gọi là tu. Đó là con đường trung thực nhất để đưa đến chỗ coi đời là cuộc ca vũ, là cuộc chơi đầy hoan lạc. Để bạn thấy điều đó cách thực tế th́ hôm nào mát ḿnh mời bạn đi thăm một thiền đường sẽ thấy khuôn mặt rạng rỡ yêu đời, vui sống. Bạn hăy gặp riêng một vài người đă tu Vô vi vài ba năm mà hỏi chuyện th́ hầu chắc bạn sẽ được nghe người đó nói với bạn rằng trong đời họ, họ nghĩ không thể gặp ân huệ nào to lớn hơn, quư trọng hơn là được biết phép tu này. Bạn sẽ nghe kể về một đôi người tu đă tự ư từ bỏ cả những công cuộc kinh doanh đang đem lại nhiều tiền bạc để được xóng ḷng hơn mà dồn tâm trí vào việc tu.

Tại đâu? Thưa là v́ họ đă hé nh́n thấy cơi hư linh đầy ơn phúc khiến những của cải đời này bỗng trở nên nhẹ như mây trôi, không c̣n đủ sức tŕ kéo họ như trước. Ḷng họ nghiêng hẳn về cơi siêu linh, về những phúc lạc trường tồn. C̣n bao nhiêu những nhu cầu vật chất như ăn, mặc, ở, đi tuy họ không bỏ, nhưng không c̣n âu lo như trước, thay vào mối tư lự th́ nay là an lự tức làm tận lực rồi quy thiên số. Sự thành bại bỗng trở nên nhẹ kư, tự nhiên họ đặt niềm tin vào Chúa Quan Pḥng không đời nào để cho họ thiếu những thứ cần nọ. Điều tin đó làm cho ḷng họ khoan khoái thanh nhẹ hẳn đi. Đó là về tâm hồn.

C̣n về sức khỏe th́ thấy gia tăng hơn trước, nhiều bệnh nan y nhờ tu mà khỏi, họ cảm thấy đời là một cuộc chơi dài dài làm bằng những lớp tuồng tiếp diễn luôn luôn, mà trong đó họ vừa là khán giả, vừa đóng một vai, cao có, thấp có, đôi khi chơi vai đau khổ th́ họ chỉ thấy đó là những kích động rất ơn ích cho cuộc tiến hóa. Họ không c̣n âu lo sợ hăi về những cảnh trầm luân địa ngục nữa. V́ họ đă quyết chí trở về cùng Cha Trời, họ thấy rơ Cha Trời đang chờ đón họ kia, đang mỉm cười với những cố gắng của họ, những khẳng định ư chí của họ bằng tu niệm, công phu, công quả, công tŕnh. Cho nên việc về cơi trên trước kia họ coi như những chuyện hoang đường, hay cùng lắm như những ư niệm thoáng qua, có thể là đúng là hay nhưng không chắc đến lượt ḿnh... th́ nay họ nắm vững một trăm phần trăm. V́ họ đă biết rơ cái đó tuỳ ư chí của họ, không hề tại Trời.

Cha Trời chỉ có ngày đêm mỏi ṃn mong nhớ và luôn gửi tín hiệu để khuyến khích: mới tu th́ có thể là những cú sờ đầu tê tê, rồi sau sẽ đổi ra những cái xoáy trên đỉnh đầu tưởng như Cha Trời đang mài mỏng các xương thóp đặng lúc nào tiện có thể đập bể để mở thiên môn cho hồn bay lên thiên giới, trong khi chờ đợi th́ lâu lâu cho đi du lịch miễn phí: đó là những cuộc xuất vía, xuất hồn hầu quan sát ḍ đường cho những cuộc bay xa về sau. Tuy nói là ḍ đường mà thực sự đă được xem những phong cảnh nguy nga rực rỡ chưa hế thấy ở trần gian, chứng tỏ rằng những truyện bồng lai tiên cảnh với những phúc lạc trên đó là có thật, c̣n vượt xa những câu truyện kể lại là khác. Có nhiều bạn đạo chưa được nếm trước những điều trên đây (điển, du lịch) nhưng cũng tham dự với tất cả bạn đạo niềm tin vững chắc rằng họ đang tích luỹ những của vô giá chẳng ai lấy mất đi được nữa, kể cả cái chết. Hơn nữa chính giờ chết là lúc họ được đưa về làm chủ những của cải mà bấy lâu họ vun bồi.

Nó xa biết bao với lúc chưa tu đầy lao tâm khổ tứ để chao vét, nhiều khi dùng mưu gian chước quỷ, ích kỷ hại nhân để thu quén cho nhiều. Đôi khi cũng hơi nghĩ lại: thu quén nhiều mà làm chi, chết rồi có mang đi được đâu nào... Nhưng lập tức có câu trả lời: ôi cái chết c̣n lâu, mà cuộc sống th́ phải sống, hiện nó đang trờ trờ ra đây, lại c̣n gia đ́nh con cái... biết đâu mà duy tâm vớ vẩn, thế là cố ôm, cố giữ rồi bỗng dưng phải di cư thế là nhà tan, cửa mất c̣n lại có “hai bàn tay trắng”. Vậy đă là may chứ nhiều khi tay cũng chẳng c̣n để mà trắng. Rồi vào Nam lại hùng hục chao vét, lại giở đủ mưu chước xưa kia, rồi một khi tiền của có lên th́ lại ôm giữ. Đùng một cái lại di tản: hai bàn tay lại trắng nữa. Rồi định cư ở đệ tam quốc gia lại bắt đầu như trước cái đời dă tràng xe cát bể Đông. Nghĩ lại vậy họ mới thấy cám ơn Cha Trời Mẹ Đất đă đưa đẩy cho họ biết đường tu. Thôi từ nay bái bai cái bể đông với các đồng chí dă tràng cũ để hô hấp. Mỗi cú thở là mỗi thêm chút thanh điển cất kỹ măi đáy linh hồn không một chính phủ nào ḥng tịch thu nổi. Sao đời tu nó thơ thới vậy ta. Ấy là chưa nếm hết chứ nếu đă nếm nhiều hơn th́ c̣n thấy đáng ham hơn cả triệu lần để đi đến kết luận rằng:

5. Càn Khôn vũ trụ là một cuộc hí lộng đầy hoan lạc

Câu tuyên bố này khỏi gây nhiều tranh luận ồn ào và những lời cải chính rầm rộ không những do người đời đă chịu muôn cay ngàn đắng v́ đời, mà ngay cả những vị tu đắc đạo cũng đồng thanh bảo rằng đời là bể khổ, là biển trầm luân, là thung lũng đầy nước mắt... Nhưng xin nhận xét những câu nói sau này phát xuất từ những vị đắc đạo quả thực là đúng mọi đàng, nó khác với những câu chê đời trên kia mà tôi cho là nói láo, bởi v́ họ nói trong vô minh, không biết ư nghĩa cuộc đời. C̣n đây là các bậc thầy quá hiểu cuộc đời bao gồm nhiều cung, nhiều cơi, các Ngài đă thấy phúc lạc vô cùng của những cơi trên đem so lại th́ cơi trần quả là bể khổ, cần phải rút chân ra để vươn lên cơi trên. V́ vậy, đây không là câu nói bi quan uỷ mị mà là những câu nói đầy sáng suốt và tích cực lạc quan v́ nó chỉ cho ta đi vào nẻo có hạnh phúc thực. Đường lối đó là tu tiến, tu là đi lên các cơi trên.

Vậy xin hỏi có bao nhiêu cơi trên? Ta quen nghe nói 9 tầng trời. Đạo Lăo nhân gấp 4 thành 36 cơi. Cơi thứ 36 nhà Phật gọi là Ta Bà, đó là cơi loài người chúng ta đang ở. Cơi Ta Bà ví như cái ‘bin đinh’ nhiều tầng: chúng ḿnh ở tầng trên, quỷ ở tầng dưới, các tầng giữa th́ lộn x̣ng nhiều người phải ‘share’ pḥng với quỷ. Chưa cần t́m vào những con số 9 hay 36, đó chỉ là huyền số, có thể nhiều hơn vô kể nhưng chắc một điều là ngoài cơi Ta Bà này th́ c̣n nhiều cơi bên trên, nơi đời sống khá hơn nhiều lắm, nghe nói ngọt lịm à, phải tu mới nếm được. Chứ cơi chúng ta ví như người ăn bưởi mà chỉ gặm có cái vỏ, rồi chửi thề bưởi Biên Ḥa ngọt ở đâu nào? Đó là tại bạn không gặm sâu vào trong để thấy ngọt: chỉ cần cắn vào đến cơi 35 đă mê tít rồi chứ chưa cần lên đến những đợt 34, 33, 32...

H́nh ảnh trên giúp hiểu tại sao tôi kết thúc bộ triết An vi bằng vũ trụ quan của “hóa nhi đa hí lộng” coi tiến tŕnh hóa hóa sinh sinh là một cuộc hí lộng của Tạo Hóa mà trong đó chúng ta được tham dự. Đó là kết quả của một truy tầm và nghiên cứu triết lư kéo dài cả một đời người mới đi đến được sự chấp nhận câu nói nọ. Tôi cho câu đó của tiền nhân là một sự thành tựu to lớn, bởi v́ hầu hết triết học cũng như thuyết lư không đi được tới định đề nọ, mà thiếu định đề nọ th́ có giỏi mấy cũng không t́m ra đuợc những câu giải đáp thỏa măn cả lư trí lẫn t́nh cảm cho những thắc mắc về cuộc đời, về ư nghĩa sự sống, về vũ trụ quan măi tự xa xưa tới nay vẫn liên miên được đặt ra, thí dụ từ tác giả sách Job cho đến văn hào Mỹ Hemingway đă biết bao triệu lần câu hỏi tại sao đời đầy đau khổ được lặp lại, và nhất là tại sao những người lành, những kẻ vô tội lại phải chịu đày đọa truân chuyên.

Hăy đi t́m lời đáp cho các vấn đề trên. Thoạt tiên, cần gảy bỏ vũ trụ quan bất động cách kinh khủng, nên quan niệm bất động đă gây đầy bế tắc trong văn hóa và triết học không đưa ra được lời giải đáp nào thỏa đáng. Vậy phải nh́n về phía vũ trụ quan động, nhưng trí ta liền hỏi: tại sao động? Động để được cái ǵ? Hễ thưa được cái ǵ, thí dụ để Thượng Đế được vinh danh, được tôn kính là huỷ diệt Thượng Đế rồi đó, bởi v́ Thượng Đế là vô cùng không thể thêm cho Ngài được chi hết, huống hồ chút vinh danh tôn kính của con người có là cái thá chi đối với Ngài. Ngay cả tội lỗi con người, kể cả tội phạm thượng cũng chẳng là cái chi. V́ thế phải là thứ động vô cầu và đó là chơi. V́ chơi mà muốn trung thực phải là không t́m cầu cái chi bên ngoài: không tranh thắng, không tiền tài, không danh vọng. Chơi được như vậy chỉ có hài nhi: hài nhi chơi luôn luôn, mà chơi là chơi, không đ̣i hỏi cái ǵ, không biết đ̣i ǵ. V́ thế mà ví Tạo Hóa với trẻ đang chơi gọi là “Hóa nhi đa hí lộng”.

Cuộc hí lộng đó có thể quan niệm như cuộc kéo cóc vô cực vô biên mà Hóa nhi tự phân thân làm hai cực để có bên kéo đi, bên kéo lại. Bên kéo đi (hay kéo lên) người Việt xưa kêu là âm, là thanh, là chiêu, là tả... Bên kéo lại (hay kéo xuống) gọi là dương, là trược, là mục, là hữu... Đó là bản chất vũ trụ. Con người cũng như vạn vật, vạn sự đều phải tham dự vào cuộc kéo cóc này: ở con vật th́ cách vô thức; ở con người th́ cách hữu thức hơn kém. Càng lên cao càng nhận thức ra và càng tham gia mạnh. Kéo lên được th́ hạnh phúc. Bị kéo xuống th́ đau khổ. Cứu cánh con người là phải kéo lên đến nguồn cội để được hạnh phúc cùng cực.

Lăo Tử nói: “Các phục quy kỳ căn” = muôn vật đều đang đi về nguồn gốc, tức không vật nào mà không đang tiến hóa, không đang đi về nguyên bổn của ḿnh. Con người khác hơn con vật ở chỗ có thể tham gia cách ư thức vào việc tiến nên có thể gia tốn đà đi lên. Ư nghĩa cuộc sống là ở chỗ đó, ở chỗ cuối cùng sẽ tham dự đắc lực vào cuộc chơi của Tạo Hóa. Như vậy th́ đời sống phải là một cuộc chơi: nếu Thượng Đế là một Hóa Nhi đa hí lộng Cha, th́ loài người cũng phải là những hóa nhi đa hí lộng con. Nói cụ thể: nếu quan niệm vũ trụ như cuộc chơi của con Tạo là ổn thỏa nhất th́ cũng phải xem đời người như một cuộc chơi mới là quan niệm hay hơn hết cho con người.

Chính quan niệm nọ đặt nền móng tâm lư cho cuộc sống an nhiên tự tại. Xem đời sống là một ván cờ, hoặc một vở tuồng, hay vở kịch mà ḿnh cũng đóng một vai: tất cả những đau khổ, những sự bất như ư, trái tai gai mắt ḿnh thấy hằng ngày đều là dấu chỉ sự kéo xuống của bên kia, ḿnh cần cố gắng kéo lên, để đời sống ngày thêm tươi đẹp. Những sự cố gắng đó mặc nhiều h́nh thức gọi là nhân đức, là trí, nhân, dũng... cần được vun bồi cho ngày thêm lớn mạnh. V́ thế mà những bê bối, bất công, lộn xộn trong đường đời không ở đâu và bao giờ có thể xóa bỏ, nên ta phải t́m cho chúng lư do tồn tại đó là để rèn luyện trí óc con người luôn luôn có dịp xoay sở, tập minh biện, tập sáng tạo những phương pháp mới t́m ra đường lối mới để làm đẹp cho cuộc sống. Cuộc sống ví như chơi cờ ván ván khác nhau, lư trí phải luôn luôn tỉnh thức, ḍ trước xét sau. Có vậy trí mới tiến được. Trí có tiến th́ nhân và dũng cũng mới tiến theo. Đó là lư do sâu xa tại sao phải nhận vũ trụ quan động, tại sao phải quan niệm cuộc đời như cuộc chơi.

Sự sinh sinh hóa hóa đó không thêm ǵ được cho Thượng Đế, nhưng với những tiểu hồn th́ thêm được, v́ tự trược tới thanh là cả một sự thêm hoài hoài, nhưng đấy là những sự thêm của tiểu linh quang không đưa lại chi cho Đại khối linh quang. Sở dĩ với tiểu linh quang nói là có thêm có bớt v́ có đi tự trược tới thanh, lại c̣n chịu luật không gian thời gian: có sau có trước, khác hơn các cơi trên là v́ thời gian của cơi trần kéo dài chứ trên cơi trung tâm vũ trụ th́ một nháy mắt bằng cả triệu triệu năm dưới này. Dưới này sinh ra rồi từ từ lớn lên, rồi bệnh, lăo, tử... Chứ trên trung tâm càn khôn vũ trụ sinh diệt nối liền không thể gọi là thêm bớt được. V́ thế mà phải dùng quan niệm hí lộng của hài nhi. Hài nhi luôn luôn hí lộng mà không cầu cái chi: không có ư thêm được cái chi. Cũng vậy, Thượng Đế chỉ hí lộng để mà hí lộng, không thể cầu cái chi bên ngoài, mà chỉ là biểu diễn cái bản tính của ḿnh. Ta gọi đó là cuộc hí lộng của hài nhi, v́ hí lộng là h́nh thái tác động tinh tuyền nhất, một tác động có tính cách an vi không thể cao hơn được nữa.

Đó là quan niệm rút ra được từ các h́nh tạc trên mặt Trống Đồng: các h́nh vẽ trong đó đang tham dự một cuộc vũ tiến về trung tâm. Tất cả là một cuộc tiến hóa trong hoan lạc để trở về với nguồn cội.

Bạn có thể hỏi đời đầy đau khổ đắng cay pha vào th́ c̣n gọi là cuộc chơi được chăng? Thưa rằng vẫn được, v́ đau khổ đắng cay chỉ là thế đối với các tiểu hồn, chúng cần những đau khổ để được kích thích rời bỏ vỏ ngoài trần trược đặng tiến vào các cung, các cơi bên trên. V́ thế có đau khổ, nhưng đó là đối với tiểu hồn thôi chứ đối với Đại Hồn th́ không đáng gọi là đau khổ, mà chỉ là một chút khó nhọc y như khi ta chơi football mà sầy tí da hoặc chảy mấy giọt mồ hôi, cùng lắm là bong gân về xoa ít dầu nóng là xong. Hoả ngục với tiểu hồn th́ ghê gớm thật chứ đối với Đại Hồn chưa chắc đă đáng gọi là bong gân. C̣n những khổ luỵ đời này: tai ương, băo lụt, bất công, chinh chiến... chẳng qua là một vài giọt mồ hôi. Đừng nói chết vài trăm triệu, chứ chết cả loài người trong quả địa cầu này hỏi có thấm vào đâu so với càn khôn vũ trụ có cả hàng tỉ địa cầu. Giả sử quả địa cầu này có tan biến mất th́ đối với Chúa Tể càn khôn chưa chắc đă đáng gọi là một cơn sốt rét vỡ da.

Lại c̣n vụ thời gian ba mươi năm, một trăm năm đối với ta là dài, chứ với Đại Hồn chưa đáng là một nháy mặt. Hăy thử nh́n bằng cái nh́n của Đại Ngă mới thấy ṿng sinh sinh hóa hóa quả là một cuộc vui chơi thỏa thích của trẻ Tạo Hóa đang hí lộng. V́ thế cần quan niệm bao trùm cả vũ trụ. Phải tập soi thiên địa vạn vật là nhất thể mới dễ thấy ư nghĩa cuộc đời, mới dễ sống an vui thanh thản như như được.

Kính Lạy Ngọc Hoàng Thượng Đế Vô Cực Đại Thiên Tôn.


IX. Tóm kết

Mới nh́n th́ dễ tưởng Pháp lư Vô vi là một ngành nào của Phật giáo: cũng thiền định, người truyền pháp cũng cạo trọc đầu, sách vở tràn đầy danh từ Phật giáo...

Nhưng khi nghiên cứu theo lối cùng triệt tức theo cơ cấu toàn thể th́ thấy Phật giáo chỉ đóng góp một phần nhỏ có thể gọi là b́ phu hay nói theo cơ cấu chỉ có ở đợt ngoài vi là từ, c̣n mấy bước sau như: tượng, số, và chế th́ lại hầu hết giống Việt.

Hăy nói về chế tức phần hữu vi sắc tướng th́ Vô vi cũng đạt bốn cái không như Việt Nho là không chùa chiền, không cúng bái, không sư ni, không cả tổ chức nữa. Đă vậy cái tên Vô vi cũng lấy từ Việt Nho.

Sau chế đến tượng tức siêu h́nh cách cụ thể bằng biểu tượng cũng y hệt, nghĩa là Vô vi cũng đặt trên thứ Vô tích cực như Việt Nho nên không hề mảy may thắc mắc về có linh hồn hay chăng, chết có là hết chăng như Phật giáo Ấn Độ đă đặt ra, là v́ căn cứ trên siêu h́nh tiêu cực, do đó cũng mang tính cách bi quan. Trái lại, khi truyền sang đất Việt gặp nền siêu h́nh tích cực đă dần dần nảy sinh tinh thần lạc quan phấn chấn. Tinh thần này sau được quy tụ vào danh hiệu Đức Di Lạc, một biểu tượng lạc quan yêu đời, coi như đang sửa soạn vào đời cách rất tích cực, đến độ đă làm nảy sinh niềm tin tưởng rằng: đời mạt kiếp nay sắp tàn, Đức Di Lạc sẽ khai mở một kỷ nguyên mới với trời mới, đất mới. Niềm tin đó quả là một phương lược truyền bá mau lẹ, và đă làm nổ ra một số cuộc nổi loạn khiến cho mấy vua sau đời Tuỳ, Đường lo sợ nên đă phải t́m mọi cách kiểm soát Phật giáo.

Lại c̣n biểu tượng về nguyên lư mẹ vẫn “làm bà Chúa xứ bên Việt” như đă báo hiệu trong trang huyền sử Man Nương và việc thờ trời cũng lại hiện h́nh trong Linh Nữ Kim Thân Cha mang đến cho Vô vi hai đặc tính Việt không thể lẫn vào đâu được là t́nh mẹ lư cha.

Bây giờ nếu đi sâu hơn vào Số, ta cũng sẽ nhận ra Vô vi đi theo bộ số nền tảng của Việt Nho là “vài ba tham lưỡng”. Bộ số này hàm tàng một nền triết lư cân đối giữa tâm vật rất cao siêu, nhưng không may con cháu đă để cho lu mờ.

May thay đến nay được phục hoạt cách chói chang qua pháp Vô vi cùng với quyển “Chơn Lư” về hiện tượng Kim Thân Cha, đó là những điều làm cho tôi phải choáng ngợp, khiến cho sau khi cứu xét cặn kẽ “theo sự yếu đuối loài người có thể” tôi phải tin. Đây không phải đức tin tôn giáo mà chỉ là niềm tin triết lư, tức người tin vẫn c̣n giữ sự tự do lựa chọn, cũng như chỉ tin những điều mà lương tri có thể t́m ra chỗ tựa. Đó là điều tôi t́m được rất nhiều trong quyển Chơn Lư: cả những câu tuyên bố động trời làm nhiều người kinh ngạc, nếu không coi là chướng tai, chẳng hạn “quỷ ma cũng là phần của Thượng Đế. Thượng Đế là kẻ đại ác...” Những câu khẳng định kiểu này làm biết bao người mích ḷng, v́ nó mới lạ quá. Bên Tây phương mới thấy có Carl Jung, tổ sư khoa uyên tâm tuyên bố như thế trong quyển “Réponse à Job” của ông, nhưng cũng không dám nói quyết liệt như quyển Chơn Lư. Vậy mà đối với tôi, câu đó cũng chỉ là quảng diễn mạnh mẽ một chân lư đă có tự đầu, v́ là nền tảng của triết lư Việt Nho. Thí dụ trong câu định nghĩa “người là quỷ và thần một trật” (nhân giả quỷ thần chi hội). Người là con, Thượng Đế là cha. Rau nào sâu nấy. Con đă là quỷ th́ cha cũng là quỷ luôn chứ sao.

Nghe lạ quá phải không? Sự thực đó chỉ là hệ quả của câu định đề nền tảng là “thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng...” Lưỡng nghi là chi? Ai cũng biết là âm dương. Nhưng âm dương là chi? Thưa là cặp từ để chỉ hai thái cực chống đối nhau: đất trời, tối sáng, quỷ thần... Tóm lại hết mọi trạng thái chống đối nhau đều gọi là âm dương. Thần và quỷ cũng nằm trong đó. Thần là chí nhân chống với quỷ là chí ác. Nếu đă quan niệm Thượng Đế là chí nhân, chí thần th́ đương nhiên phải có chí ác, phải là quỷ. Có vậy mới có hai cực giằng co nhau. Phải như vậy mới là Thượng Đế. V́ Thượng Đế phải được quan niệm như một tác năng vô cùng vô cực hay nói cụ thể hơn là “khối điển quang vô cực vô biên”. Vậy nếu không có hai cực một tiêu một tích th́ c̣n chi là điển. Mà không là điển th́ c̣n chi là Thượng Đế. Người ta quen quan niệm Thượng Đế là đấng chí nhân không vương chút ác nào và quỷ ma là thù địch của Ngài. Quan niệm như thế là do ḷng mến yêu cung kính Thượng Đế nhưng lại là quan niệm một chiều nên chính là huỷ diệt Thượng Đế. V́ nếu quỷ mà không là Thượng Đế th́ tất chúng sẽ giới hạn Thượng Đế. Thượng Đế bị giới hạn tức là có cùng, cùng đó là những quỷ ma hay bất cứ cái chi không phải làThượng Đế. Vậy là hạ Thượng Đế xuống bậc có cùng rồi, thế chẳng là huỷ diệt Thượng Đế c̣n chi? Thượng Đế phải là đấng vô cùng: không thể có bất cứ cái chi giới hạn được Ngài kể cả quỷ. Nên quỷ chính là thành phần của Thượng Đế. Người ta sợ không dám nghĩ như vậy v́ con người quen quan niệm một chiều: tốt là tốt, xấu là xấu, mà không quan niệm được cái xấu nằm trong cái tốt. Và tốt vô cùng lại phải đi kèm với xấu vô cùng: cái xấu vô cùng đó phải trở nên yếu tố cấu thành sự tốt; y như phải có giây lạnh đi với giây nóng mới làm cho có điện, v́ điện gồm cả giây nóng lẫn giây lạnh. Có vậy mới làm ra nóng ra sáng được.

Nói lướt qua một thí dụ thôi để tỏ rằng nền triết trong Pháp lư Vô vi qua Kim Thân Cha ăn khớp với triết lư An vi ngay cả trong những khẳng định ghê hồn. Phương chi các câu quyết đoán khác đều ăn hợp hoặc cách minh nhiên hoặc cách mặc nhiên. V́ thế An vi thâu nhận Pháp lư Vô vi chẳng qua là thâu nhận những quảng diễn khác hơn của chính ḿnh mà thôi.

Một khi đă nhận phần Pháp lư rồi tôi mới xét kỹ phần pháp hành. Và ở đây lại ngạc nhiên không ít, khi thấy pháp hành đă được Việt Nho là bộ số “vài ba tham lưỡng” với các hệ luận của nó. Ta hăy ôn lại sơ qua: trước hết là phép soi hồn: không ngành Yoga hay thiền nào có hết. Thế mà đó lại là điều đáp ứng với nét đặc trưng của Việt là chú ư tới bộ đầu như đă nhắc về tượng Nữ Thần Mộc đầu đội mũ nhọn, được b́nh dân hóa thành nón Chóp và biểu thị bằng các thứ đỉnh đồng... Soi hồn cũng hàm tàng bộ số của Việt Nho là 2, 3, 5: giơ hai cánh tay lên (số 2) bịt tai mắt tinh (số 3) rôi hai khuỷu tay ở trên liên hệ với hai đầu gối ở dưới vẽ ra h́nh vuông (số 4). Đó chính là hai bộ số của bánh dầy (3) bánh chưng (4) vậy.

Tác động thứ hai là thở cũng được Việt hóa luôn với khẩu lệnh đầy rốn, đầy ngực, tung lên bộ đầu làm liên tưởng tới ba phần tang trống là: chân, thân, tang tương ứng với rốn, ngực, đầu hoặc các cấp trước bàn thờ của Cổ Việt bó buộc phải có ba (số 3) nấc.

Ngoài ra lại c̣n những câu quen thuộc của Việt Nho gồm các số như 2 là hai mạch nhâm đốc, số 3 như tam bửu: tinh, khí, thần. Số 5 là “ngũ khí triều nguyên”... Quẻ Vô vi đă được Việt hóa trọn vẹn. Nếu chỉ xem có bên ngoài th́ người Tây Âu sẽ gọi là phép tu Ấn Độ. Người ḿnh th́ gọi là của Phật nhưng khi xét thấu triệt, vạch kỹ để xem con dấu chủ quyền đóng sâu xuống di vật th́ phải nói Thiền là một di sản chung của Đông Nam Á trong đó Việt tộc giữ vai then chốt. Chính phép thiền cũng đă xuất hiện lâu đời dưới vô số tên và nhiều cách thức mà tất cả đều nhấn mạnh đến sự trống rỗng tâm hồn, Nho gọi là hư tâm. Việt chỉ bằng chữ Trống (trống đồng) hay bằng hang động như trong tên “Động Đ́nh Hồ”. Lăo Tử gọi là Cốc thần, Trang Tử gọi là trai tâm hay tọa vọng. Người ta bảo là phép đó có tự thời Vô Hoài nghĩa là không ai nhớ xuất phát tự đâu và tự bao giờ nữa, chỉ biết rằng về cách tọa thiền th́ được dân Dravidien bên Ấn Độ vun bồi, rồi sau người Aryen thâu nhận về đặt tên là Yoga, một tiếng cùng gốc với từ La Tinh Jungo có nghĩa là nối, hiểu là nối kết con người với Thượng Đế. Đó là tâm pháp được các tôn giáo bên Ấn Độ đều thâu nhận như Bàlamôn, Jaina, Phật... rồi sau truyền sang Tàu và gọi là Thiền. Chữ này là một âm khác của chữ Thiện đi sau chữ Phong để chỉ lễ tế Trời và Đất đă có tự thời Vô Hoài trong địa bàn Cổ Việt là vùng Thái Sơn. Khi tế th́ quét đất cho sạch để làm bàn thờ mà tế. Có thể v́ việc quét này mà chữ Thiền được dùng để chỉ việc định thần v́ muốn “định thần” th́ phải quét khỏi tâm hồn những vấn rác thế tục. (1)

(1) Lễ Phong tế ở Thái Sơn, lễ Thiện tế ở Hội Kê, kinh đô Cổ Việt. Không hiểu tại sao Hội Kế lại ra Cối Kê. Đọc Hội Kế có ư nghĩa hơn nhiều: nghĩa là tự 4 bên quy tụ về giữa để tính sổ sách.

Tóm lại Thiền là di sản của chung miền Đông Á có đă tự thời Vô Hoài, nay được Vô vi thâu nhận th́ chính là được Trời ban lại cho dân Việt, sau khi đă Việt hóa cách sâu rộng, ngoài ư thức của người “t́m ra” hay người truyền bá. Thí dụ khi ông Tám bảo lúc thiền phải quay mặt hướng Nam (hướng hỏa) hoặc khi nuốt nước bọt phải quay mặt sang phía trái, hay nói 12 ṿng thở theo pháp luân chiếu minh là ṿng con giáp... th́ cả ba việc đều là những nét đặc trưng của Việt tộc. Cả đến quốc hoa Việt là hoa 9 cánh cũng có thể coi như được gặp lại trong tên của Cha; một tên gồm 9 số: 4 số ṿng ngoài cùng gọi là số thành gồm “Ngọc Hoàng Thượng Đế”, c̣n 5 số ṿng trong (hay số sinh) là “Vô cực Đại thiên tôn”, lại được khuyến giục “thường niệm, vô biệt niệm” làm liên tưởng tới các đoàn vũ trên trống đồng đang hiện thực câu: “Hoa quỳ chăm chăm hướng về Thái Dương”.

Rồi từ đó liên tưởng đến những lễ tế trang trọng như Tế Thiên và h́nh thức nhà Minh Đường với thể chế tứ quư (tức dành tháng cuối mỗi mùa để tĩnh tâm). Tôi cho việc thường niệm “Hồng danh Cha” là một thứ lễ Tế Thiên đă được b́nh dân hóa và phổ cập đến với mọi người, để dân tự tế lấy cho hợp thời đại dân chủ. Với việc “thường niệm vô biệt niệm” tôi cũng cho đó là thể chế tứ quư được phục hoạt không phải chỉ 4 tuần trong một năm mà trong hết mọi ngày, mọi giờ: đi, đứng, nằm ngồi, đều nghĩ đến Cha, niệm Cha khiến cho mối t́nh giữa Cha Trời và các con trở nên thấm thiết hơn xưa muôn phần. Điều này kể ra cũng là được Việt hóa nữa, v́ nét đặc trưng của Việt là t́nh người được vun bồi coi như nét chính: nên ta thấy t́nh người, t́nh nhà, t́nh nước thắm thiết xiết bao. Nay được áp dụng vào Thượng Đế cũng trở thành t́nh cha con nồng nhiệt, không phải khô khan như Thái cực hay Thượng Đế trong Nho hay quá lu mờ như Thái Hư trong Phật, mà là thắm thiết như cha con. Cha mà mẹ luôn: hai mối t́nh lai láng xuất hiện vào một.

Điều này làm tôi liên miên nghĩ tới “Tiên mẫu Long phụ” gặp nhau trên Cánh Đồng Tương” th́ nay “Tiên mẫu Kim Thân Cha cũng chứa đầy kỳ diệu. Đó không là cuộc gặp gỡ giữa mẹ tiên cha rồng sao? “Thân mẹ mà tiếng cha”. Hiện tượng đó cũng làm tôi nghĩ tới câu “Nữ Thần Mộc dạy anh em Lộ Bàn Lộ Bộc làm nhà chữ Đinh”, tức dạy Đạo làm người, th́ nay cũng “Tiên Mẫu Kim Thân Cha” dạy miêu duệ của Mộc Việt biết đường “Vi nhân” đích thực là trở về nguồn cội muôn loài. Nguyên lư mẹ năng được nhắc tới trong bộ triết lư An vi bỗng hiện ra trong xương trong thịt với đám con đang lao đao khổ luỵ ngút trời.

Cuối cùng cũng nên kể đến 4 chặng tu tiến theo Việt Nho là định, tĩnh, an, lự. Ban đầu Vô vi có phần dừng lại ở hai đợt đầu: định, tĩnh. Nhờ Đức Kim Thân đẩy cho một cái mới mạnh dạn đặt chân lên hai bước sau (người đẩy bằng nhấn mạnh đến Đạo làm người: coi trọng nhân nghĩa, lễ, trí, tín, đừng coi thường địa tiên... và c̣n chiều hướng dấn thân vào chính trị).

Tóm lại khi xét bao quát từ tên gọi, qua thể chế (không tổ chức, 4 không của Việt Nho) qua siêu h́nh tích cực, qua bầu khí yêu đời cho đến nền triết tiềm ẩn trong bộ số vài ba, thấy đều giống với Việt Nho. Có thể nói Vô vi chính là Đạo Nội trùng phùng; huyền sử Việt cũng chính là tiền sử Vô vi. Mỗi trang huyền sử hoặc ấn tích của văn hóa Việt là bấy nhiêu bài khuyến “tu tâm dưỡng tính”. C̣n Đạo do Cha Trời ban th́ xưa kia được nói bóng là Nữ Thần Mộc dạy, đến nay việc trùng tu Đạo Nội cũng lại do Cha Trời hiện thực qua huyền nữ Kim Thân. Ông Tư, ông Tám chỉ là công cụ thường không thể làm chi được, phải do Cha Trời ban ra mới có được một đường lối tu dưỡng đặc biệt như vậy. Nói theo Yoga th́ Vô vi là một Yoga tổng hợp gồm cả Yoga sùng mộ (bhakti) cả Yoga tác hành (Karma) nhưng được dẫn đầu bởi Yoga trí tuệ (Jaina). Nói theo đạo pháp th́ đây là lối tu đầy ḷng sốt sắng đối với Cha Trời, mà đồng thời lại là một nền triết cực thâm hậu. Cả hai điều đó đi với nhau làm nên một lối tu rất hiệu nghiệm, v́ là lối tu hợp t́nh hợp lư, cũng chính là lối tu hợp đạo nội của Việt tộc, nghĩa là một đạo pháp dẫn đầu bởi Minh Triết, như trong việc tiếp thâu Phật giáo đă chứng tỏ điều đó bằng uốn nắn cho đạo Phật phải Việt hóa phần nào mới tồn tại được trong địa bàn Việt.

Nếu ai thắc mắc hỏi tại sao chúng tôi lại dồn tâm sức vào việc chứng minh Vô vi giống với Việt Đạo? Thưa là v́ Vô vi chỉ là một đạo nội nên cũng cần đến phần ngoại vương. V́ quyền hành điều động thế giới xưa rầy nằm trong tay ngoại vương, trong tay triết lư.

Ở đâu và bao giờ cũng vậy “ce sont les idées qui gouvernent le monde” chứ không phải mấy người tu (tu chỉ là đạo nội, muốn cải đổi đời phải kiêm ngoại vương, ấy là nói theo hữu vi, mà đă viết ra lời lẽ thuộc hữu vi). Học giả hay nhắc đến vụ Phật giáo Tàu phát đạt mạnh từ thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ 12, có lần tưởng đă trở thành quốc giáo, nhưng đến khi siêu h́nh Kinh Dịch phát triển với nhóm Chu Tŕnh th́ liền đi lần vào chỗ lụn bại, ấy tại phần ngoại vương yếu kém. Bên Việt cũng một hiện tượng xuưt xoát đă xảy ra trong đời nhà Lư đạo Phật mạnh nhưng đến nhà Trần đạo Phật lùi bước trước Nho. Điều đó chắc sẽ không xảy ra nếu như Phật hợp với Nho đă ḥa hợp như Nội thành với Ngoại vương. Nhưng điều đó không có (hoặc quá ít). V́ vậy chúng tôi cố chứng minh Vô vi là nội thành của Việt Nho th́ là muốn độc giả nhận thức được sự vững vàng của nền đạo pháp mới này. Điều đó rất thuận lợi cho những người đang đi t́m Đạo mà biết rơ cả trong lẫn ngoài như vậy th́ sẽ bớt đi được nhiều lư do ngần ngại.

Nếu muốn hỏi đâu là nét đặc trưng hơn cả của Việt Đạo th́ đó chính là chữ Tự: tự đạo, tự thành, khác xa nhiều lối tu khác thường c̣n quá lệ thuộc vào sự phù hộ. Sự cầu phù hộ thực ra không phải là xấu, trái lại c̣n cần nữa là khác nhưng chỉ nên dành cho những tŕnh độ khởi đầu y như con nít mới tập đi phải nhờ cậy mẹ nâng đỡ. Nhưng rồi mỗi ngày mỗi tiến thêm th́ phải lần lần tập đi một ḿnh: càng lên cao càng phải tự lập, v́ tự lập là đức tính làm ta giống với Cha Trời hơn cả. Người là đấng tự thể trọn vẹn, nên hồn càng tới gần Người th́ càng phải thêm đức tự lập để giống Cha. V́ thế đức tự lập trở nên một thứ thước để đo tầm cao thấp của một đạo pháp. Việt Đạo sở dĩ được gọi là siêu việt chính v́ giàu đức tự lập, tự cường nọ vậy. Nho gọi đó là “trung lập nhi bất ỷ”. Đấy là nét đặc trưng nội tại.

Nếu hỏi đâu là dấu đặc trưng bên ngoài th́ đó phải là chữ Thái Ḥa, nói kiểu triết là bao được cả Thiên cả Địa: “Thiên Địa có vị yên” th́ vạn vật mới “tịnh dục”. Vạn vật trong con người hiểu là cả Vật lẫn Tâm, tất cả đều được nuôi dưỡng vun bồi. Nói theo Vô vi là cả trược lẫn thanh, cả đời lẫn đạo đức song tu: tu đạo mà không bỏ đời, trái lại đêm công phu, ngày công quả, công tŕnh. Cha Trời luôn luôn nhắc nhở các con phải lo tṛn Đạo làm Người mới có đà tiến lên làm Tiên, Thánh, Phật. Khác với nhiều lối tu ưa tị thế tránh đời, coi đời là giả trá cần lánh xa. Ở đây tu cả hai, đúng là nét song trùng đặc trưng của Việt Nho tạo nên sự cân đối giữa hiện tượng và siêu việt, giữa “hai đất với ba trời”. Cả đến quyển Chơn Lư mà Vô vi có thể nhận làm kinh điển cũng chính là một quyển triết lư nhân sinh, tức nói những điều mà t́nh lư loài người dễ dàng theo dơi mặc dầu rất cao siêu nhưng không lúc nào là duy niệm hay duy thức xa ĺa đời sống. Tỏ ra sức ngoại hàm cực rộng gồm thâu tất cả.

Nói kiểu khác th́ câu “thiên địa vị yên” có nghĩa là cả lư cả t́nh đều được chú ư: t́nh lư tương tham. Nói đến văn hóa Việt là phải chú ư đến t́nh: t́nh người, t́nh nước, t́nh nhà đều được vun bồi rất mực. Thế mà t́nh ấy lại ḥa hợp với triết lư thâm sâu, thâm sâu đến độ đạt Minh Triết, nó ở tại đáp ứng mọi nhu yếu nền tảng của con người: tất cả đều được nuôi dưỡng (vạn vật tịnh dục). Chính chỗ t́nh lư tương tham này mà văn hóa Việt có tiếng là dùng nhiều biểu tượng: là v́ đang khi lư trí có giới mốc, có biên cương, th́ tâm t́nh lại có tính cách uyển chuyển không phân bờ cơi rơ rệt, v́ thế mà phải dùng nhiều biểu tượng, là v́ biểu tượng có tính cách co giăn như cao su, dễ dàng thích nghi với hoàn cảnh để cho t́nh lư tương tham mà lấy quyết định tuỳ theo hoàn cảnh, không cứng đơ kiểu duy lư hay duy t́nh. Chính trong bối cảnh đó mà chúng ta được hoan hỉ tiếp nhận biểu tượng lớn lao vô cùng về Thượng Đế giáng phàm trong một xác thân linh nữ. Yếu tố Nữ nói lên mối t́nh thâm thiết của văn hóa Việt xưa đă biểu thị bằng các nghi mẫu, gọi chung là Tiên mẫu. C̣n mối t́nh nào cao cả, bao la hơn t́nh mẹ. Thế mà vẫn đi với nền triết siêu phàm. Cụ thể là Pháp lư Vô vi ra được một dạng thức ḥa giải giữa tôn giáo và triết lư. Xưa nay, triết lư quá chuyên về lư mà lăng bỏ t́nh người. C̣n tôn giáo th́ quá chú ư về t́nh mà lăng về lư, nên không mấy khi hợp nhau. Nay Vô vi nhờ biểu tượng Tiên Mẫu Kim Thân Cha đưa ra được một nền triết thâm sâu mà lại đi với một đạo pháp đầy ứ t́nh người, bơm thêm sinh lực cho triết lư để thẩm thấu ngày càng sâu vào con đường Đạo.

Một số độc giả có thể thắc mắc tại sao chúng tôi nói tới Phật giáo hơi nhiều về những khía cạnh cần sửa sai. Xin thưa rằng đó quả là điều bất đắc dĩ do sự vụ là Vô vi đă quá thiên về Phật, mượn của Phật nhiều điều làm mờ cả Vô vi. Nghĩ cũng tội nghiệp. Nếu Vô vi không tâng bốc Phật quá nhiều th́ có ai dám nói chi đến Phật đâu, nhất là càng ngày chúng tôi càng thâm tín rằng đạo nào cũng tốt, tốt cho một số người ở trong một tŕnh độ nào đó. Có muôn vàn tŕnh độ th́ cũng cần rất nhiều đạo khác nhau, nhiều tôn giáo khác biệt để ứng hợp cho mỗi tŕnh độ, cần đến nỗi nói được cả tà đạo cũng hợp cho một số linh căn (v́ tiên khiên những linh căn đó phải theo tà giáo để trả nghiệp thí dụ). Đàng khác, trong việc tu tiến th́ quan trọng trước hết phải kể đến là ḷng thành: hễ có ḷng thành th́ dù đạo thấp rồi cũng cao, đạo tà rồi người theo cũng có thể làm cho nên chánh. Bởi vậy rất không nên phê b́nh chỉ trích bất cứ tôn giáo nào. Huống chi lại là Phật giáo, là một đạo cao đẳng: Đức Phật là một tấm gương sáng chói của nhân loại rất đáng kính tôn, v́ Người đă bỏ ngôi báu để chọn con đường tu hành và tu theo lối cao nhất là thiền định, nên đă có thể lưu lại ảnh hưởng lớn lao trong văn hóa. Chỉ nội bấy nhiêu đă quá đủ để được thán phục, ngợi ca không thể hết lời, chứ có cần chi phải tạo những truyện quá đáng làm cho Phật giáo trở nên khó cho lư trí chấp nhận.

Thế nhưng có những người quá sùng mộ đă không chịu theo như vậy, họ đă tâng bốc Phật với óc tưởng tượng buông cương: cả dám tôn Phật lên trên Thượng Đế, lấy tên Phật đặt cho Đấng Tối Cao, làm nảy sinh nào là Hắc B́ Phật Tổ, A Di Đà Phật, nào là Tam Thân Phật... th́ đó là phạm tội liệt vị rơ rệt gây ra sự suy thoái có hại cho đạo Phật rất nhiều, khiến những người quan sát khách quan không c̣n dám ca ngợi Phật nữa v́ e phạm tội a ṭng với những kiểu tâng bốc quá lố đến phạm thượng kia. Bởi thế khi truyền sang bên đất Việt Nho, mới làm nảy ra những câu như “phùng Phật sát Phật”... Nhưng đó chỉ là cái nh́n ước ao, loé sáng chưa đủ minh biện cặn kẽ, nghĩa là chưa chỉ tỏ ra được những Phật nào phải sát, v́ sao phải sát, mà chỉ nói chung th́ có ai sát được ông Phật nào đâu. V́ thế đến nay Cha Trời lại phải truyền lệnh:

Tiến vào cơi khổ.

Đạp đổ Niết Bàn.

Giết “ta” Phật “ngă”:

Rơ mặt Ngọc Hoàng”.

Câu ba nói rơ phải giết ông Phật nào. Đó là những ông Phật do trí óc phàm ngă của người sau tô tạo, nên gọi được là “ta Phật ngă Phật”. Những ông Phật đó đều phải giết hết th́ mới rơ được mặt Ngọc Hoàng. Chính Phật chưa đi tới Pháp thân, mà đă vội đưa Phật lên đó rồi. Vậy là phạm tội liệt vị c̣n chi. Đă thế c̣n giữ độc quyền cho Phật, làm sai luôn thuyết Tam thân.

Thuyết đó chính là một kiểu nói bóng để tả đại khái những chặng tiến của tâm thức con người:

“Nhục thân” là đợt c̣n trong trần trược.

“Hóa thân” là khi tu đă đắc đạo, đă sang bến giác.

“Hóa thân” là khi giác đến tột cùng, đến toàn giác trở về đến tận nguồn cội. Nho gọi là “phối thiên”, Lăo giáo gọi là “huyền đồng”.

V́ thế Pháp thân có những thể tính y như Thượng Đế: “thường trụ, an tịnh”... Như vậy không nên đưa chữ Phật vào v́ sớm quá hay đúng hơn v́ quá sức phán đoán của con người. Con người chỉ thể biết đến Hóa thân là cùng. Phương chi càng không nên chiếm độc quyền cho Phật. Hắc B́ Phật cũng phải bỏ. Lên đến đấy th́ c̣n b́ nữa đâu mà hắc với bạch?

Đến Adiđà Phật cũng vậy, Phạn ngữ là ‘Amitabha’ th́ ‘amita’ là vô cùng, ‘abha’ là sáng, Tàu dịch khá sát nghĩa là “vô lượng quang”, không có Phật nào cả, đó là Thể sáng của Thượng Đế, cũng là “ánh linh quang” của con người, Nho gọi là “Minh Đức” (tại minh Minh Đức). Nay thêm tiếng Phật vào thành ra là của riêng ông Phật, thế là cũng tham dự vào tội soán đoạt liệt vị nốt, nên cũng phải giết: để vậy mới nghe đă tức cười: bỏ tiếng sáng (abha) đi rồi chỉ c̣n vô cùng, như vậy Adiđà là niệm cái ông vô cùng. Ủa có cái ông ǵ tên là vô cùng vậy ta!

Đại để đó là lư do tại sao nói về Vô vi mà phải viết thêm ít lời về Phật. V́ tôi thấy Vô vi xem ra có phần quá đề cao Phật đến độ tha và vô vi toàn những loại ta Phật ngă Phật nên buộc ḷng phải nói ra cho minh bạch mong cho Pháp lư Vô vi không bị nhận lầm với những tầm giử của Phật giáo hầu trở nên dễ hiểu, dễ theo cho mọi người.

Kính Lạy Ngọc Hoàng Thượng Đế Vô Cực Đại Thiên Tôn.

X. Vài cảm nghĩ về bản dịch quyển "Chơn Lư"

Đây là một bản dịch rất công phu sát nghĩa đáng mừng cho Vô vi. Ngay cái tên sách đă thấy đáng yêu, vắn gọn: ‘truth by god’. Người tŕnh bày lại chọn màu b́a vàng Kim càng làm tăng thêm ư nghĩa. Đành rằng khi đọc bản dịch ta chỉ thấy được chừng 80% của chính văn, nhưng thiết tưởng đó là cái mức hầu cuối cùng mà bản dịch dù tốt nhất cũng chỉ có thế tới mấp mí cỡ đó; “dịch là diệt” mà. Cho nên trừ ít tiểu tiết th́ nói chung đó là bản dịch rất được.

Mấy điều bàn sau đây thuộc về phần chú thích. Phần này tỏ ra dịch giả là người có đọc sách về nghiên cứu Phật giáo, tuy có gia thêm uy tín cho bản dịch nhưng cũng có chỗ v́ đó mà làm thiệt bản dịch phần nào. V́ dịch giả cố chú thích quá sự cần thiết nên có vẻ lôi quyển sách vào chân trời (môi sinh) Phật giáo, đó là điều không đúng ở cơ cấu. Cơ cấu chú trọng rất ít đến từ mà chuyên chú ư tới cái môi sinh. Cái môi sinh Phật là tiêu cực, bi quan, phi thế, c̣n môi sinh quyển Chơn Lư th́ tích cực, lạc quan, nhập cuộc. Vậy hễ điều nào làm cho quyển Chơn Lư mặc lớp Phật giáo quá đáng th́ sai với bầu khí của nó. Có hai luật coi như của riêng Phật nhưng thực ra không phải, v́ hai luật đó chỉ là hệ luận của luật bao quát hơn là tiến hóa, mà tiến hóa lại là nền của Việt Nho như được tŕnh bày trong Kinh Dịch. Nên Việt Nho chấp nhận hai luật đó cách rất dung dị, coi như những quảng diễn đặc biệt của luật chung tiến hóa vậy.

Cũng nói được về nhiều điểm khác như vậy. V́ thế từ ngữ của Phật có nhiều tới đâu cũng không đổi được bầu khí quyển Kinh. Nhất là khi ta thấy Cha Trời rất xuề x̣a, không chấp vào lời chút nào tức không cần hiểu theo nghĩa gốc mà hiểu theo tiếng nói thông thường thí dụ khi ta nói mạt kiếp th́ chẳng cần phải nghĩ đến Kalpa của Ấn, nói Vô vi trống rỗng cũng không cần nghĩ đến Thái Hư (Synysta). V́ những chữ ấy đă Việt hóa nếu không phải là chính Việt ngữ. Bởi thế sự móc nối với từ gốc Phật nhiều khi không cần mà c̣n có thể làm sai lạc chân trời.

Đây tôi đưa ra thí dụ về định nghĩa “Thượng Đế là khối điển quang” (câu 59) th́ rơ ràng là điển tại sao không dịch bằng một từ nào thuộc ‘electricity’ mà lại dịch là ‘energy’. Tôi đoán dịch giả ưng chữ này hơn v́ cái hậu trường Kinh Điển âm u là chữ Prana, không như chữ điển nghe nó có vẻ nhà bè quá, trần tục quá, làm sao ví được với chữ ‘energy’ kèm theo Prana Akasa đầy u linh. Vậy nhưng bản văn nói điển mà khi đọc ta không nghĩ ǵ đến khí, nhất là khi đọc kỹ câu 4 và 5, hay khi nói về con người c̣n rơ hơn nữa “người là điển quang được cấu tạo bằng điển âm và điển dương” (câu 49) như vậy mặc dầu chữ ‘electricity’ có vẻ trần tục cũng vẫn nên dùng mới giữ được cái bầu khí của bản văn, v́ bản văn là của một vị chị chơi: nói những điều lạ và trần tục hơn nhiều, c̣n khó nghe là khác, thí dụ “Thượng Đế cũng là quỷ ma, Thượng Đế là đống phân...” th́ có ngại ǵ mà không dám dịch là điển quang. Xét cho cùng câu nói Thượng Đế là điển chính là một định nghĩa mới lạ của bản văn, là một khải thị vĩ đại vừa cao sâu cùng cực mà lại cụ thể hơn hết trong thời này. V́ ngày nay con người đă được nhờ tác dụng của điển hàng ngày, và chẳng ai thấy h́nh tượng điển ra sao cả. Vậy có phải là ứng hợp với Thượng Đế không? Chẳng ai thấy Người, nhưng không một cái ǵ dù sợi tơ, sợi tóc trên đầu ta mà lọt ra ngoài quyền Ngài được.

Nhất là khi nghĩ tới điện tử là nền tảng vạn vật và nhất thứ khi nói riêng về điện tử (electron) chính là nền tảng tinh thần nữa, th́ dịch là điển thiết thực xiết bao, chứ ‘energy’ làm sao ví được, mặc dầu ‘energy’ có hàm chứa ư niệm điển nhưng nói chung quá nên dịch giả đă dùng để dịch cả tinh, khí, thần, v́ thế tiếng ‘energy’ làm mất đi ư niệm mạnh mẽ vô song của chữ điển.

Huống chi quyển Chơn Lư xuất hiện trong Vô vi, mà Vô vi th́ rất đáng tên là “điển quang pháp giới”. Người tu đến tŕnh độ nào sẽ cảm được điển, rồi chú ư đến điển: lúc được thêm điển, lúc bị mất điển. ‘Energy’ hay ‘Prana’ không thể nào gây được cảm nghĩ sâu xa, thắm thiết và bao la như vậy. Cho nên không dịch điển là điện là một sự mất mát lớn lao. Riêng với tôi, tôi phải thú thật khi đọc bản văn đến câu Thượng Đế là khối điển quang... ḷng tôi tràn ngập mối t́nh mến yêu bát ngát, mà khi đọc chữ ‘energy’ trong bản dịch tôi chẳng cảm thấy ǵ nữa.

Điều cần bàn thứ hai là câu chú thích về Khổng Tử. Khổng Tử đại diện Nho, Nho là Đạo làm người được Cha Trời năng nhắc đến và nhấn mạnh sự cần thiết coi như bước đầu không có không được để đi đến các bước sau. Vậy mà chú thích tŕnh bày Khổng Tử quá thấp th́ người ta hiểu thế nào được Cha. Không lẽ Cha đề cao một cái ǵ tầm thường như vậy sao. Dịch giả giới thiệu Khổng Tử mà không nói đến cái nơn (cơ cấu) lại chỉ nói đến cái b́ phu do các đời sau trát vào. Điều này xảy ra ngoài ư thức dịch giả. Dịch giả giới thiệu Khổng Tử đă công thức luân lư thành tam cương là quân thần, phụ tử, phu phụ (tr.210). V́ sự ngự trị của Hán Nho nên chắc không ai nói khác dịch giả hết, nên tôi bàn đây không có ư sửa sai dịch giả mà muốn bày tỏ rằng đó là Hán Nho. Hán Nho là Nho đă sa đọa ra khỏi cơ cấu của nguyên Nho rồi nên mới nói tam cương là vua tôi, cha con, chồng vợ, c̣n nếu theo Việt Nho th́ sẽ nói vợ chồng, cha con, vua tôi. V́ có nói vợ chồng (vợ trước chồng) th́ mới hợp nét song trùng uyên nguyên là âm dương (âm trước dương), âm trong dương ngoài (nữ nội, nam ngoại) t́nh lư tương tham (t́nh trước lư) nhà nước (nhà trước nước) tu thân, tề gia trước trị quốc b́nh thiên hạ... Nếu chỉ có cái thứ tự suông th́ không đáng bàn, đàng này cái thứ tự khác kéo theo một tinh thần khác hẳn tức Hán Nho đổi thứ tự đó v́ đă lây phải óc du mục: lấy mạnh hiếp yếu, đề cao tù trưởng, ông vua, đẳng trưởng, nên đổi tam cương cân đối có âm có dương ra tam cương đực rựa là quân thần, phụ tử, phu phụ. Vậy là đánh mất tinh thần Việt Nho rồi c̣n ǵ, nó ở tại câu “dân vi quư, quân vi khinh”. Tức dân trước quân: đặt quân lên đầu th́ đâu c̣n “quân vi khinh” nữa. Thế mà đấy mới là đợt luân lư xă hội.

Nếu nói đến đợt triết lư th́ sự sai mới lộ hẳn: tức lấy phần rất tuỳ phụ để định tính một đạo lư, y như nói Vô vi là đạo “di đà do ông Tám” vậy, Vô vi đâu phải vậy, Nho cũng thế nó không là tam cương xă hội mà là tam cương đạt đức là: trí, nhân, dũng và không c̣n là ngũ luân nữa (vợ chồng, cha con, vua tôi, huynh đệ, bằng hữu) mà phải là ngũ thường là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Sau lấy chữ nhân thay cho tam cương và chữ nghĩa thay cho ngũ thường thành ra nhân nghĩa. Đó là cái khung uyên nguyên gọi là Tam tài, Ngũ hành rồi sau thể hiện vào các bộ tam và ngũ ứng dụng, trước hết được huyền sử hoá thành:

Tam Hoàng (thay cho tam cương)

Ngũ Đế (thay cho ngũ thường)

Rồi Hán Nho lại lịch sử hóa thành:

Tam Vương (Hạ, Thương, Chu)

Ngũ Bá (Tề, Tấn, Tần, Việt, Sở). Rồi c̣n sa đọa hơn nữa thành ra bộ ba tam cương xă hội của Hán Nho: quân thần, phu tử, phu phụ.

Cuối cùng đốc ra cái tam hạng bét là bộ Tam ṭng tứ đức để hạ đo ván đàn bà. Bộ ba cuối cùng này sai cả đến từng chữ. Tam Hoàng làm chi có tam ṭng. Âm đi trước dương chứ âm có ṭng dương đâu. Ngũ thường đổi ra tứ đức: từ 5 xuống 4 mất đi một chân rồi. Đấy, Hán Nho tŕnh bày Nho như vậy đó. Khiến từ 20 thế kỷ nay hễ nói đến Nho là người ta nghĩ ngay đến tam ṭng, tứ đức hay khá hơn là tam cương xă hội mà không động ǵ đến cái cơ cấu của nó, th́ đó chỉ là giới thiệu Nho với cái tầm gửi đợt ba. Như vậy th́ làm sao hợp với Nho chính tông, làm sao người ta hiểu được tại sao triết học hiện đại đang đề cao Nho cách long trọng.

Bên ngoài là việc hội nghị triết học quốc tế chọn Khổng Tử giữ đũa nhịp của nhạc trưởng để điều khiển bản ḥa tấu đang h́nh thành giữa Đông Tây, cũng như giữa đạo đời.

Bên trong là việc Cha Trời giao phó cho Nho đứng đầu trong nhiệm vụ thực thi Cơ Quy Nhất. Tức cả trong lẫn ngoài đều hợp nhau đề cao Nho. Đó quả là một vinh dự tột cùng không nền triết nào được hưởng. Tại sao Nho được như vậy? Thưa v́ đó là nền triết đạt được chữ Thái Ḥa nghĩa là hoà cùng cực cả trời cả đất, cả quỷ lẫn thần, cả nam lẫn nữ vậy.

Điều thứ ba đáng nói tới là chú thích 36 (tr.221-222) về “Lục tự Di Đà” có chứa mấy điều làm người đọc phải ngạc nhiên tại sao dịch giả đă bỏ công dịch quyển Chơn Lư, tức đă suy xét cân nhắc từng lời một, vậy mà c̣n nói mấy điều trái khoáy như sau:

Thứ nhất về việc niệm Lục Tự bằng âm Việt, dịch giả viết “It is important to know this fundamental and universal notion”.

Ôi làm chi có chuyện nền tảng với phổ biến. Đó chỉ là phương pháp của một vài đạo pháp như Kundalini Yoga thí dụ, chứ có phổ biến và nền tảng đâu. Nếu nền tảng và phổ biến th́ hết mọi pháp đều phải có và có y như nhau cả về số chữ, lẫn âm thanh. Thế mà nhiều đạo pháp không có cả đến niệm, chứ đừng nói đến âm, c̣n tên Ngọc Hoàng lại chẳng có số nào nhất định. Vậy Lục Tự di đà chỉ là một kiểu riêng của một số phép nên chỉ là nét đặc trưng chứ không phải nền móng. Vô vi đă đặc trưng hóa bằng bớt đi một luân xa c̣n có 6 (trong Yoga có 7) c̣n âm th́ trong Sanskrit có tám là “Na mô amitbaha budha”. Đây bỏ hai chỉ c̣n 6 âm.

Thứ đến sao lại đưa Tây Tạng ra làm thí dụ về sự hiệu nghiệm? Viết như vậy là theo lối tu học mà không theo trí học. Tu học lấy tin làm nền, bất cứ cái ǵ trong đạo nói đều cho là thật, c̣n với trí học phải có bằng chứng. Nói là hiệu nghiệm mà mấy người được tin là đắc đạo bên đó có đưa nổi bằng chứng khách quan chăng. Ai cũng biết sự hiệu nghiệm của một pháp c̣n tuỳ thuộc phần lớn vào sự tinh tấn cũng như ḷng thành khẩn của người tu, tức là phần chủ quan tham dự rất nhiều trong sự hiệu nghiệm, nên trí học không dám trưng phép nọ kia hiệu nghiệm làm thí dụ để kết luận.

Về sự phân biệt tu học với trí học, dịch giả tỏ ra chưa để ư đến chẳng hạn câu 17 Cha nói “triết lư các tôn giáo” mà dịch là “religions and philosophics” là không đúng. Đó không là triết lư đúng riêng mà chỉ là triết lư về tôn giáo, tức một thứ thần học tuy cũng có suy luận kiểu triết nhưng lấy các huấn lệnh tôn giáo làm định đề, nên không là triết mà chỉ là một khoa minh giáo, một khoa t́m cách bàn rộng hay là “một biện chứng” theo nghĩa t́m lư lẽ để bênh vực cho những điều đă được tiên thiên trước kia. Nói vắn tắt đó chỉ là tu học chứ không là triết học. Chính v́ triết nói ǵ cũng kiểm chứng, hoặc kiểm lư được nên người đời coi trọng triết hơn tu học nhiều lắm. Trong câu sau Cha không nói triết nữa mà chỉ nói “các tôn giáo chỉ đứng một khía cạnh để nh́n một khía cạnh khác”. Chứ Cha không nói các triết học, tuy triết học hầu hết cũng nh́n một chiều, nhưng có một số biệt lệ mà trong đó Việt Nho nổi nhất ở chỗ đấy thật xa lối xét cả hai chiều. Người thí dụ được Nho định nghĩa là “quỷ thần chi hội”, vạn vật cũng đều nói có âm, có dương, có tĩnh có động... Sở dĩ xét về mặt kiểm soát được th́ tu học thua trí học, là v́ tu học dựa trên điểm và ḷng thành. Có ḷng thành th́ tà cũng ra chánh. Sách viết luộm thuộm chẳng ra ǵ mà những người tu bảo nhau đọc v́ “có điển”, thế là mọi người quư hóa, nền móng của tu học ở chỗ đó. Với trí học th́ khác, nó không xét có điển hay ḷng thành, mà chỉ xét lời nói có hợp t́nh hợp lư chăng, trước sau ăn chịu với nhau ra sao: nói sai vẫn là sai không v́ căi được, mặc dầu “có điển”.

Thứ ba câu kết “it made of necessity to follow the Vietnamese phonetic”. Viết câu này dịch giả tỏ ra chưa hiểu rằng ‘Kumdalini’ chỉ là một đạo pháp hạng thấp v́ c̣n quá lệ thuộc vào thanh sắc đến độ nguy hiểm. Khỏi cần đọc rộng, chỉ cần suy nghĩ câu 22 Cha giảng rất rơ về chính niệm ra sao, tất sẽ không c̣n “dám” viết câu trên nữa.

Tôi nói “dám” v́ câu viết tỏ ra dịch giả coi trọng ông Tám hơn Kim Thân Cha. Đó là “tội phạm thượng” do ảnh hưởng rớt lại của tội liệt vị của Phật giáo đă coi Phật cao hơn Trời. Tôi đặt chữ “dám và tội” trong ngoặc v́ hy vọng ư thức dịch giả không hề nghĩ cũng như không ngờ như vậy. Nhưng cần phải nói ra ở đây là quyển Chơn Lư vượt quá mức trí học và khả năng hiểu biết của ông Tám nên ít bạn đạo hiểu được các âm vang của quyển Kinh. Nhưng những ai muốn dịch nên hiểu rằng Vô vi ở đợt ông Tư, ông Tám chỉ thể là một đạo pháp địa phương, chưa đáng được thức giả chú ư chứ đừng nói đến kính nể, c̣n nay được kính nể ngay trong giới trí học và có tầm vóc lan rộng ra quốc tế, chính là nhờ quyển Chơn Lư và hiện tượng Đức Kim Thân. Cho nên dưới con mắt trí học cái “tội phạm thượng” tuy vô t́nh kia cũng rất đáng lưu ư để tránh tái phạm.

XI. Phương pháp công phu

 

Phương pháp công phu in sau đây trích nguyên văn từ quyển Vấn Đạo (Hội Ái Hữu Vô Vi 1982) chỉ có vài điều liên can đến lời nguyện và niệm được sửa đổi. Lời nguyện đây không phải là cầu nguyện ǵ cho ḿnh, nhưng trước hết là lời chào lạy đấng Cha lành. Sau là nhắc lại lư tưởng và quyết tâm tu sửa ḿnh để tu cho được tinh tấn, thường gọi lư tưởng đó là đại nguyện. Cuối cùng là cầu cho vạn vật thái b́nh, cũng như cầu cho cha mẹ tổ tiên, họ hàng xa gần (gọi là cửu huyền thất tổ) được thức giác về sự cần thiết phải tu.

Lời nguyện thường cũng là lời niệm. Kim Thân Cha đă cho phép những người ngoài Phật giáo không phải niệm Phật. Chúng ta nên thống nhất và quyết chí niệm danh Cha, và nên coi đó như là lời niệm quốc tế. V́ số người không theo Phật giáo sẽ ngày càng đông và phải đông hơn, phải mở rộng ra quốc tế. Và lời nguyện đó cũng là hợp cơ quy nhất hơn: muốn trở về một gốc th́ cũng nên bắt đầu niệm một lời như nhau, đó là niệm Cha, Danh Cha có nhiều nhưng thường dùng hơn cả là câu:

KÍNH LẠY NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ VÔ CỰC ĐẠI THIÊN TÔN. Hoặc

KÍNH LẠY CHÚA TỂ CÀN KHÔN. (câu này sáu chữ dành cho những ai thích lục tự hoặc dùng khi mật niệm bát chính).

Chữ Kính lạy cũng cùng nội dung như chữ Nam-mô. Thiết nghĩ nên tránh chữ Namô v́ nó gắn liền với Phật giáo quá lâu đời. Cha ban Vô vi qua người Việt th́ dùng tiếng Việt là sự hợp lư, nên đă rộng phép cho các người không theo Phật giáo muốn nguyện và niệm sao cũng được. Tuy nhiên, v́ niệm là có ư nối tiếp việc thiền, tức tập trung tâm trí vào Cha, nên lời niệm phải vắn tắt, đọc một kinh không phải là niệm nữa, v́ trí đă lan ra rộng bằng cả một kinh: đó là mở đường rơi vào cái tật “tâm viên ư mă”. Lời niệm phải là một danh xưng mà thôi. Lăo giáo gọi là “thủ nhất”. Cha ông ta xưa chỉ kêu một tiếng Trời. Thiết nghĩ đó chính là lời niệm của đạo Việt. Vậy nên đọc một kinh dài cũng ví được như niệm nhiều tên Phật sẽ đâm ra chia trí nhiều ngả. Về việc niệm xin đọc quyển Chơn Lư nhất là câu 32 (như sẽ trích vài đoạn trong phụ trương II). Xin đọc lại nhiều lần để sau này khi gặp trong nhiều sách Vô vi thấy nhiều kiểu niệm bạn khỏi hoang mang. Cứ tin vào lời Cha là yên trí mọi đàng, khỏi cần thắc mắc. C̣n những lời niệm Di Đà, Quan Âm, Di Lạc là tạm mượn lúc đầu, v́ các người tu hầu hết theo Phật giáo. Nay Vô vi mở rộng th́ nên chọn lời niệm Cha để tránh những khó khăn cho những người ngoài Phật giáo.

XII. Bàn thêm về hiện thực

Pháp lư Vô vi được coi là một lối tu tắt, nhiều người đạt ẩn chứng có thể nói là mau lẹ. Không cần giải nghĩa bằng mặt Vô vi huyền bí, mà chỉ cần cứu xét mặt hiện tượng hữu vi cũng đă thấy được lư do.

Một v́ đưa trên sự “tự tu tự tiến” cao độ, gạt bỏ mọi sự cầu phù hộ, chứng tỏ đă tới gần nguồn cuối của đấng Tự Hữu, nên kể là giai đoạn chạy nước rút.

Thứ đến là ư thức sâu sắc về những tác động, v́ bỏ hết mọi rềnh rang bên ngoài: tổ chức, miếu mạo, cúng vái để tâm trí được dồn trọn vẹn vào đường tu, nên hiệu nghiệm dễ thấy mau hơn.

Thứ ba là ráo riết tận cùng, thi hành đúng theo câu “quân tử vô sở bất dụng kỳ cực”: người quân tử làm cái ǵ cũng ráo riết tới chỗ cùng tột mới thôi. Xét riêng về mặt này th́ ta có thể nói Vô vi là cái xe lắp toàn những bộ phận tốt nhất: tự soi hồn, pháp luân cho đến thiền định, tất cả đều rốt ráo. Trong bài này tôi muốn nhấn mạnh đến điểm nọ.

Trước hết là lời nguyện. Bạn có thể bỏ lời nguyện và niệm, v́ thiền là một phương pháp tự nhiên, có thể hiện thực theo lối khách quan kiểu khoa học, như nhiều đạo pháp thiền mà không có nguyện hay niệm ǵ cả. Điều đó không có chi trái để phải phê phán. C̣n Vô vi có nguyện có niệm v́ đây là một đạo pháp kép, kết hợp cả tôn giáo với thiền, cho nên thêm được phần thành khẩn cùng cực: v́ lời nguyện và niệm làm nổi bật mối liên hệ giữa ta với Cha Trời và Mẹ Đất, khiến cho việc thiền thêm chiều kích thâm thiết, giúp rất nhiều vào việc huy động toàn bầu tâm t́nh tha thiết đổ dồn vào tu luyện, khiến cho việc tu luyện dễ thành tựu hơn.

Vả trên đường tu tiến tới một lúc nào đó con người thế nào cũng sẽ cảm thấy mối t́nh bao la giữa ḿnh với Cha Trời, hiện thực mối t́nh đó chính là ṇng cốt tôn giáo. V́ thế mối t́nh này được hiện thực trong Vô vi th́ chỉ là thêm một chứng từ nói lên tính chất Việt Đạo, v́ tổ tiên ta vẫn gắn bó với Cha Trời cách thâm sâu cùng cực: động tí là kêu trời. Xưa kia nhà nào cũng có bàn thờ Trời. Đến nay Trời được đưa vào Vô vi bằng h́nh thức nguyện và niệm th́ đó là cách thờ Trời đă thăng hoa, đó quả là tôn giáo đă tinh lọc đến cao độ. Bởi thế ta hăy để hết tâm t́nh vào lời nguyện, nguyện cho thực sốt sắng, cho thực chí t́nh cũng như kéo dài lời nguyện bằng việc thường niệm, vô biệt niệm, để gia tốc đà tự tu, tự tiến của ta.

Sau lời nguyện là đến soi hồn. Cặp từ nghe có vẻ lạ tai nhưng thực ra chỉ là một cách nói lên khía cạnh cùng tột trong sự đoạn ĺa ngũ quan xem, nghe, cảm, nếm, ngửi đều phải dừng lại trong một lúc để có thể dồn tất cả tâm trí vào cái đầu. V́ đầu có xuôi đuôi mới lọt. Xuôi đây phải hiểu theo đạo trống, tức phải làm cho trống rỗng tâm trí, gọi là “trai tâm”: tâm tư phải chay tịnh, không để cái chi dính bén lại trọn đó đặng dọn chỗ cho Linh Thiêng xuất hiện. V́ thế xưa nay đạo Việt luôn chú ư đến cái đầu, nay Vô vi cũng làm như vậy với tính cách ráo riết cùng cực, bịt tai, mắt, tinh để dồn tâm trí vào một điểm. Điểm đó có thể là tam tinh hay là đỉnh đầu tuỳ đàng nào người tu thấy dễ th́ chọn. Làm như vậy cách ráo riết th́ có thể cảm tưởng như ḿnh lái chiếc phi cơ phản lực mũi nhọn đang bay vút lên các tầng cao, khiến ḿnh cảm thấy sự rốt ráo của tác động, cũng như đà gia tốc của sự tự tu tự tiến. Nhờ mấy cử động đó ta thấy dễ thi hành sự ly ĺa trần cấu để dồn trọn vẹn sinh lực vào việc siêu thoát. Có lẽ v́ vậy mà được đặt tên là phép soi hồn, như thể nói hồn xưa nay bị để lẫn lộn với xác thân, lẫn lộn với bao sự trần cấu uế tạp, nay được luồng sáng của tâm trí soi vào làm nổi bật lên trên nền trời tâm linh để sẵn sàng bay lên cao măi.

Sau “soi hồn” th́ đến thở. Thở cũng là một tác động rất ơn ích cần làm rất thong thả và tập trung cùng cực, chính sự thong thả giúp vào việc tập trung và do đó mà có sự khác nhau trong các pháp, nó ở tại tỉ lệ hít, nín, thở. Yoga thường nín hơi lâu gấp 4 lần th́ giờ hít vào. Nhịp thường và thấp nhất là 3-12-6 (hít 3, nén 12, thở 6). Nhịp trung b́nh là 16-64-32. Vô vi th́ bỏ hẳn đoạn nín để cho hít và thở nối tiếp liền như bánh xe lăn không ngừng lại. V́ thế gọi là pháp luân. Không nín sợ hơi nín lâu quá có thể đánh thức làn hoả hầu sớm quá gây ra tẩu hỏa nhập ma. Điều này cũng có lư, nhưng tẩu hỏa nhập ma c̣n xảy ra v́ nhiều lư do khác nhau như do bộ đầu chưa được khai thông (bằng soi hồn khai thông th́ đă tránh được nguy cơ quá nửa). V́ thế thiết nghĩ những ai muốn cũng có thể nín hơi ít lâu để kéo dài nhịp hít thở hầu đạt được sự thong thả hơn. Ṿng pháp luân của ông Tám kéo dài đến 90 giây. Người mới tập nhiều lắm 40 giây, nên thêm tác động nín thí dụ 20 giây nữa th́ đạt 60: theo nhịp 2-2-2. Đó là 2 nhịp không có hại ǵ mà vẫn giúp kéo dài nhịp hít thở. V́ nín cũng bằng hít với thở không thể gây tai họa ǵ.

Có người công kích lối thở luân xa nhưng đó chính là nhịp thở tự nhiên: tức hít thở liền nhau không có ǵ đáng công kích cả. Nó chỉ khác thở thường ở chỗ chậm răi, sự chậm được rải đều trên các bước tiến của nhịp thở. Tuy nhiên tập luyện được như vậy có thể là rất khó cho một số người v́ thế mà có phép thở nằm gọi là chiêu minh đưa ra để tập thở trước. Thở nằm là cốt cất mọi trở ngại bên ngoài, hăy dồn trọn chú ư vào việc thở. Sự ư thức này c̣n được gia tăng bằng cách đếm các ṿng. Thở đúng theo số các ṿng 12, 11, 10...là lấy chú tâm đệm vào nhịp thở, lấy sự nhận thức mà tẩm nhận khí thở ra hít vào, làm cho nó tự đợt sinh lư vươn lên đợt tâm linh: biến ra thanh điển. Cho nên càng thở được nhiều càng hay. Có bạn đạo không dùng nhiều phép chiêu minh, v́ hay ngủ mất, hoặc thấy không mạnh bằng thở pháp luân, nên thay vào bằng phép thiền thở. Nghĩa là sau giờ thiền thay v́ lên giường làm chiêu minh th́ ngồi lại thở pháp luân. Thở một quăng 5 hay 10 phút thấy mệt th́ xả, rồi nghỉ chút đoạn thở như trước, rồi lại xả. Có thể làm như thế 1, 2 lần cho tới cả chục lần. Tôi thấy sáng kiến này hay, thở như vậy đă không sợ ngủ mất mà c̣n mạnh hơn chiêu minh. Và nhất là hôm nào cảm thấy thiền quá nặng không thể định trí được th́ có thể xả, rồi quay ra thở kiểu trên bù vào. Như vậy hiện thực tối đa được bước quan trọng thứ hai là thở. Sau khi đă tập khá quen chiêu minh th́ đến chính thiên. Đây mới là phần quan trọng nhất, thành công hay không phần nhiều ở đây. V́ thế nhiều pháp chỉ có thiền mà không có thở và soi hồn. Thiền là định thần, tức đưa tâm trí vào một vật ǵ, mà chỉ nghĩ luôn đến vật đó, thí dụ để hết cả tâm trí lên đỉnh đầu, nghĩ đến cái trống rỗng, có thể có màu sáng, xanh, đỏ, hay đen. Nhưng cứ giữ như thế được càng lâu càng tốt, không nghĩ đến cái khác. Đó là việc cao quư nhất được làm cách trọn hảo hơn hết. Cao quư nhất v́ là việc quy hướng về nguồn cội được ư thức cao độ. C̣n được làm cách trọn hảo nhất và quy hướng trọn thân tâm không cho những ǵ chia trí xen vô. Đó gọi là Định. Nghe nói Phật đạt đại định hăy tạm cho là 3 giờ (c̣n 2 giờ là trung định, 1 giờ là tiểu định). Ta nói tập th́ chỉ mong được 3 phút, rồi 5 phút, rồi 9 phút lên dần dần chưa biết bao giờ mới tới được một giờ. Cứ thử đi rồi sẽ thêm ḷng kính nể ông Phật hơn rất nhiều. (1)

(1) Đặc san Vô vi 83 trang 65 có kể về bà Trương Thị Mật 36 tuổi ngồi thiền đă 10 tháng liền, không ăn uống, không tiêu tiểu, mà thần sắc vẫn tự nhiên. Nếu có thực th́ quả là siêu đại định.

Sau đây xin giới thiệu một phương pháp quen thuộc trong Yoga giúp rất nhiều cho những nguời mới bắt đầu. Pháp này đă được công nhận là rất hiệu nghiệm có thể gọi là tinh hoa của thiền, đó là “Phép nghỉ toàn diện”, cũng gọi là xả (sawa-sana) đă có bàn trong quyển Tâm Tư (tr.66-69). Nay xin nói lại ở đây để những người mới tập có thể thử. Xả là có ư tập luyện giúp cho dễ đạt được sự trống rỗng tâm hồn để không c̣n vương vấn ǵ đến việc đă qua hay sắp đến, có thể gọi là nghỉ toàn diện. Thường ta gọi là nghỉ khi thôi làm việc, khi đứng không hay ngồi, hoặc cả nằm nữa. Thực ra đó mới chỉ là nghỉ được một phần tư trong con người. V́ trong lúc ấy trí mường tượng vẫn chạy lung tung, làm cho cân năo căng thẳng lên một nửa, thần kinh cần phải lao tác.... Vậy là đă nghỉ toàn diện đâu. Muốn nghỉ toàn diện phải dùng tư thế xả như sau:

Nằm ngửa trên giường hoặc phản hay ghế, đầu để sát giường, nếu có gối th́ chỉ kê cao một chút, nếu nằm theo hướng Bắc được th́ càng hay cốt để theo chiều từ trường của trái đất, v́ nằm ngược từ trường cũng làm tốn một ít sinh lực. Tay chân duỗi ra, úp hai bàn tay xuống giường, thả mọi gân cốt cho chảy ra hết như không c̣n thể vâng lệnh của ư muốn nữa. Đó rồi xua hết mọi ư nghĩ ra khỏi ư thức, hễ một ư nào vừa ló diện liền xua đi tức khắc. Có thể để trí vào gốc mũi, chỗ giữa hai lông mày gặp nhau. C̣n thân thể th́ cứ thả cho giăn hẳn xuống. Cần sao cho thực sự cảm thấy ḿnh mẩy chân tay dính đét xuống giường. Muốn chóng đạt cảm xúc đó nên đem trí khôn qua từng phần thân thể, cách rất thong thả: hết tay rồi chân, thí dụ trước hết đưa trí vào tay tả, tưởng tượng từng đoạn một từ tay trở ra, từ từ đưa đi cho đến ngón tay để thấy tất cả như chảy ra, dính đét xuống giường. Hết tay tả th́ đưa trí sang tay hữu, rồi hai chân, đến lưng, cổ và nhất là mặt. Thường gân mặt hay co lại nhất là khi nhăn nhó, cau có, vậy cần làm cho thật giăn ra, cũng đưa trí khôn đi từ phần: hết má đến miệng đến trán, nhớ là làm thật chậm răi. Khi đă thành công th́ cảm thấy như tê liệt, dính hẳn xuống giường đến nỗi muốn chỗi dậy lập tức không được. Có người vài tuần đă tập được phép nghỉ này, có người phải từng tháng mới quen, lâu mau tuỳ người. Sau khi để tê liệt hết lại đưa trí đi kiểm soát lại cả thân ḿnh một lần nữa sao cho thật tê rồi trở về vị trí cũ ở gốc mũi, nơi nhà khác tượng Phật quen điểm con mắt thứ ba gọi là Huệ nhăn và để đó rất lâu, lúc này việc để trí dễ hơn lúc trước rồi nên cố để cho lâu. Chính việc để trí khôn vào điểm Huệ nhăn có một sức an nghỉ lạ thường nên nhiều người cho là phép linh thiêng, sự thực đó chỉ là một cách giúp cho lập được thế quân b́nh tâm trí hiệu quả.

Phép xả này giúp lấy lại sức rất mau. Cả một ngày làm việc mỏi mệt mà xả theo lối này th́ chỉ cần 15 phút lấy lại được sức khoẻ như thường. Người mất ngủ một đêm cũng chỉ cần xả một khắc là đă đỡ mệt. Trước khi ngủ mà xả th́ dễ ngủ hơn, không mơ hay mơ rất ít, ngủ 3 tiếng khoẻ bằng ngủ 7 tiếng. Phép này ảnh hưởng rất nhiều đến việc an trụ tâm trí, v́ khi gân mạch giăn ra th́ t́nh tự buồn vui tức bực dễ hạ hẳn xuống, nên giúp rất nhiều cho việc gỡ khỏi sự bám víu vào những cái hiển nhiên theo lưu tục là điều tối quan trọng cho những ai muốn suy tư rốt ráo. Sau khi đạt trạng thái toàn thân chảy ra trên giường, ta có thể đưa trí nghĩ đến một vật nào đó để trọn tâm trí vào vật nọ. Đây là bước đầu của định. Nên chọn vật càng đơn sơ càng tốt: cái bút, lọ mực, ḥn bi, cái ṿng đeo tay, hay cái nhẫn. Nh́n măi một vật bạn sẽ có cảm tưởng không c̣n nh́n vật đó nữa. Đó gọi là quan. Quan là nh́n mà không nh́n (hiểu là không nh́n cái ǵ) cốt dồn tâm trí vào tác động, mà không chú ư đến đối tượng. Làm như vậy là bước lên một bậc gọi là Đạo trống. Trống rỗng tâm hồn.

Đấy là một vài cách rồi bạn sẽ xem các sách về thiền để thấy nhiều cách khác. Phương cách nào hợp với bạn hơn cả, giúp bạn thành công hơn hết th́ chọn phương cách ấy. Hễ thấy tốt nhất cho bạn là được. Sau khi đă tập quen phép này th́ đi đến chú ư trọn vào đỉnh đầu dễ hơn. Dồn cả tâm trí, cả răng cả lưỡi tất cả quy tụ vào đỉnh đầu để cố gắng định.

Tập luyện ít lâu có thể gặp thấy hiện tượng nọ kia: thấy điển trên đầu, hoặc thấy màu sắc này nọ hoặc cả đến “xuất vía, xuất hồn”, xin nhắc lại là hăy vui mừng đón nhận coi đó như bảo chứng của sự tu luyện là bạn đă có được sự thành khẩn, tinh tấn th́ mới có được như vậy. Không cần xét thật hay giả, tà hay chánh. Chánh tà ở tại ḿnh. Nếu như thấy thế mà ḿnh càng gia công tu hành tinh tấn hơn th́ tà cũng giúp ḿnh như chánh. C̣n nếu thấy xuất hồn rồi nhân đó đi coi chơi hết cơi này, cơi khác th́ đó là “bản đồ nhi phế”. Tâm trí chỉ mong có vậy để khỏi khép ḿnh vào kỷ luật: là trong một lúc chỉ làm một việc chứ không được chạy rông đi coi khắp hết. Vậy chớ quan trọng hóa những hiện tượng xảy ra, chớ lấy đó làm thước đo độ thành công cao hay thấp. Hăy coi đó như những kinh nghiệm bản thân riêng biệt chỉ thực cho ḿnh, nó có tính cách chủ quan. Đừng đem ḷng chờ trông mong đợi. Nếu xảy đến th́ hay, không xảy đến chẳng sao. Tiến với không tiến không ở những thứ đó.

Hăy cố tu cho chuyên cần, c̣n tu thật trúng cách cũng phải cố gắng làm cho được nhưng nên nhớ có được càng hay, không cũng chưa quan trọng bằng tinh tấn bền ḷng. V́ phương pháp vô số, nhưng tất cả đều đ̣i phải tinh tấn. Vậy phải cố gắng: đó là chữ dũng. Nên biết rằng không một sự cố gắng tu luyện nào là không ghi thêm ơn ích cho ta. Chớ nghe ai bảo hết điển là ngừng thiền. Đó là xúi dại. Phải tinh tấn luôn luôn: cả những lúc khô khan càng phải thêm tinh tấn. Cố kéo dài giờ thiền ra 45 phút, rồi một giờ, một giờ mười lăm phút... không hơn được th́ ngày thiền hai lần, ba lần. Con đường tiến hóa tiến vào cơi thần linh dài vô biên “nhậm trọng nhi đạo viễn”. Cao cả nằm ở đó.

Trong quyển “Phong thái an vi” tôi đă minh chứng rằng con người yếu hèn, trần trụi hơn vạn vật: thua tự con kiến trở đi. Con kiến hiểu được các điềm triệu báo trước về băo lụt, chứ con người th́ chưa. Vậy con người khác con vật chỗ nào? (nói khác chứ không dám nói hơn). Thưa khác ở chỗ cái ǵ cũng tự làm lấy hết: từ miếng cơm manh áo cho đến các tài nghệ. Tất cả đều tự học từ con số không. Rồi lâu ngày nhiều người t́m ṭi tích luỹ kinh nghiệm mới làm ra được, thí dụ con chim biết bay ngay tự đầu, con người không những phải kế tiếp nhau học lâu lắm mới biết bay tàm tạm (chết v́ bay cũng bộn). Con ṭ ṿ biết tiêm tự thưở nào. Con người lần ṃ măi mới biết. Vậy mà mỗi người c̣n phải để công sức vào đó để học, học quá ư là học cho tới quăng 30 tuổi mới đỗ y sĩ. Nhưng thôi cứ kể cho là con người biết tiêm đi. Biết tàm tạm, nhưng đặc biệt là biết tự t́m ra tiêm, tự ḿnh t́m ra bay... Việc nào cũng vậy tự làm ra hết. Trời cho sẵn có chút xíu, c̣n toàn phải tự tay làm ra.

Nhưng đó là chỗ con người khác con vật, và đó cũng là chỗ con người giống Trời hơn hết. V́ Trời là tổ sư của đức tự lập. Nói đúng hơn: tự lập, tự hữu là bản tính của Ngài. Con người bị bắt phải tự lập là tỏ ra đă gần Ngài hơn các con vật. Đây là danh dự đặc biệt mà ta cần nhận thức thật sâu sắc, để gắng công tu tiến: tự tu, tự tiến, đừng chờ mong ai giúp, Trời không giúp đâu. V́ giúp là cướp công của ta, là hạ ta xuống bậc dưới, bậc mà cái ǵ cũng ban ra sẵn cả. Chim sinh ra biết bay, ṭ ṿ chưa học đă biết chích. Nhưng chích với bay đâu phải là của chúng tự tay nhà làm ra. Con người phải ư thức như vậy. Phải biết ḿnh đă lên bậc cao rồi, tay nhà làm ra được rồi. Việc nào cũng vậy, kể ngay tự việc ăn làm thường nhật, huống chi đến những việc cao hơn thuộc lư trí, hay tâm linh th́ càng phải tự lực cánh sinh hơn nữa. Phải tự làm mới tiến, càng tự lực bao nhiêu, tự lực cho tới chỗ ư thức được từng tác động của ḿnh th́ càng tiến mau. Thiền không là việc ǵ đặc biệt cho bằng là làm công việc thường ngày cách đặc biệt, làm với tất cả tâm trí để trọn vào đấy, đến nỗi ư thức được từng cử động. Thí dụ thở có ư thức đi kèm, như cảm thấy được hơi thở chạy vào gân mạch th́ đó là thiền, “quân tử vô sở bất dụng kỳ cực” là thế.

Nhưng sức ta có hạn th́ làm thế nào? Đừng nói trong một ngày thiền hai ba thời, ngay một thời cũng mệt lắm rồi, kéo dài được 45 phút hay một giờ tưởng đă lâu bằng cả thế kỷ. Làm sao mà kéo được hai giờ, làm sao mà thiền ngày ba thời cho được? Thưa hăy làm đến hết chỗ của ḿnh. Ở đây ta được Cha Trời chỉ cho một phép để nối dài việc thiền định đó là “niệm Cha, thường niệm vô biệt niệm”: ngày đêm, đi, đứng, nằm, ngồi... hễ nhớ đến là niệm. Với pháp niệm này ta có thể bù vào những sơ hở hay cả cả những thiếu sót trong chính lúc thiền, bù một cách hết sức linh nghiệm. Cha Trời nói: “Khi các con trụ tâm tưởng nhớ đến đấng Tạo Hóa muôn loài, tiểu hồn con sẽ rung động, linh quang con sáng lên, gửi tín hiệu liên lạc với Đại Hồn Cha. Và nếu khi ấy con biết quán tưởng sự hợp nhất của con với Đại Hồn Cha th́ điển quang của con sẽ hoà vào với khối Đại linh quang của Càn Khôn. Nếu con biết hành điều này luôn luôn và tâm tư con lúc nào cũng tưởng nhớ hợp nhất với Thượng Đế, tất nhiên tiểu hồn con sẽ mau được sáng suốt, sẽ tiến hóa nhanh đến chỗ hợp nhất với Thượng Đế, trở về cội nguồn của mọi cuộc sống.

(Chơn Lư câu 22, nên đọc rất kỹ cả 5 trang câu này)

Kính Lạy Ngọc Hoàng Thượng Đế Vô Cực Đại Thiên Tôn.

 

                          VÀI PHỤ TRƯƠNG ĐỂ BUÔNG SÔNG

 

Muốn cho việc giới thiệu vô vi với người không theo Phật giáo được xuôi chèo mát mái.

Muốn cho vô vi mai ngày có chỗ đứng ở hàng lănh đạo trong nền quốc học nước nhà.

Muốn cho vô vi được tiếp nhận cách kính nể vào nền học thuật quốc tế (ngành tôn giáo tỉ giáo cũng như triết học)

Nên phải nói ra ít thắc mắc trong hai phụ trương sau. Tuy v́ những lư do nghiêm trọng như trên nên phải viết ra, nhưng tác giả vẫn cảm thấy rất ái ngại. Bởi thế muốn đưa cho dăm ba bạn đạo đọc trước may ra có giúp được cách nào. Thí dụ có cách nào để đạt điều thỉnh cầu là chỉ niệm một danh Cha mà thôi. Không niệm Phật nữa. Lục Tự Di Đà chỉ dùng riêng cho những người theo Phật giáo mà thôi.

  

           VII. Từ hoang mang thắc mắc đến “Tôi cười tôi

 

“Học là phải hỏi, phải phê b́nh chỉ trích, c̣n cứ mê man không bao giờ tiến bộ”. (Lời ông Tám trong Tôi Tầm Đạo, trang 225)

Điều thắc mắc hơn hết của tôi là vụ Vô vi bắt buộc phải niệm Lục Tự Di Đà đối với hết mọi người muốn hành pháp, mặc dầu không theo Phật giáo. Điều đó gây trở ngại lớn cho những người theo tôn giáo khác: họ sợ niệm như vậy là phản bội đạo ḿnh đang theo, hoặc là tự hạ ḿnh xuống hàng tin theo những dị đoan mê tín.

Đối với người dày công nghiên cứu Phật giáo th́ biết những định kiến kia là do sự hiểu lầm, chỉ cần gảy bỏ sự hiểu lầm đi là có thể chấp nhận niệm Lục Tự Di Đà, nhưng hầu hết không là người nghiên cứu, chỉ biết Phật qua cái bên ngoài th́ việc phải niệm Phật gây khó khăn tâm lư như nói trên. Hoặc nữa họ gặp trở ngại do xă hội, thí dụ tôi biết nhiều bạn đạo bị gia đ́nh ngăn cấm hành Vô vi v́ sợ con mất linh hồn, có trường hợp đi đến cả đập cassette ra v́ người mẹ yên trí Vô vi là Phật giáo (mà họ chỉ biết qua những dị đoan, những tượng Phật xếp từng hàng trong các chùa âm u mà chính ông Tám cũng thấy là quỷ chúng nấp sau đó). Nhưng dù sao thực muốn tu cũng phải ráng vượt qua để niệm Phật nếu đó là điều cần thiết không thể thay thế được.

Thế nhưng Đức Ngọc Đế đă bảo thay được bằng niệm danh Cha. Hơn nữa Ngài c̣n cho niệm Cha là đúng hơn niệm Phật. Rồi chính ngay ông Tám cũng nhận như vậy cho là tiện hơn, và cho phép người không theo Phật được niệm những câu khác. Vậy tại sao đến sau lại có sự thay đổi lập trường cho là việc niệm Lục Tự Di Đà không đổi được (Vấn Đạo, câu hỏi 32). Ông c̣n chống cả Đức Ngọc Đế rằng: “Tôi không đồng ư cái đó” (Vấn Đạo, câu 33). Hai câu quyết đoán trên khiến tôi giật ḿnh: tại sao người phàm dù tu cao đến đâu cũng c̣n dưới Thượng Đế vô kể lại đặt ḿnh trên Thượng Đế bằng cách chống lại!!! Thế là ḷng quư mến tin tưởng của tôi đối với ông bị thử thách rất nặng và từ đó tôi bắt đầu xét kỹ các lời khác của ông, mới nhận ra rằng ông đă nói nhiều điều bất nhất, tỏ ra ông c̣n mắc kẹt trong đợt thanh sắc, tức c̣n lấy danh làm quan trọng đến nỗi không tên nào thay thế được tên A Di Đà. Sao lại có thể như vậy v́ cả pháp c̣n thay được (có 84 ngàn pháp) huống chi là một danh từ, một lời niệm. Hơn thế “Vô là không, Vi là cái ǵ nhỏ cũng không” th́ danh xưng đâu có quan trọng. Muốn gọi Thượng Đế là Ngọc Hoàng, là Allah ǵ ǵ đó nào có chi can hệ? Đành rằng đối với ông và những bạn đạo theo Phật giáo th́ Lục Tự Di Đà tuyệt hay và hiệu nghiệm th́ điều đó rất đúng, nhưng nó linh nghiệm là v́ đă thành thói quen lâu đời của rất nhiều người chứ không hẳn do danh A Di Đà. V́ thế thiết nghĩ không nên tuyệt đối hóa bằng dựng thành nguyên lư phổ biến rồi chụp lên đầu cổ những ai không có cùng một kinh nghiệm. Thiết nghĩ đó là điều trái với tinh thần Vô vi.

Ở đây tôi nghĩ đến cái “triết lư gà gáy sáng” nói “gà gáy th́ sáng” là câu nói đúng nếu không không cần xét thêm ǵ. Nhưng nếu hỏi chữ Th́ là ǵ, nếu thưa là Nên “gà gáy Nên mặt trời mọc” là sai. Mặt trời mọc lúc gà gáy chứ không phải v́ gà gáy... Cũng vậy Lục Tự Di Đà hiệu nghiệm là nhờ đi với ba pháp: soi hồn, pháp luân, thiền định, chứ buông ba phép đó ra hỏi có c̣n được hiệu nghiệm như vậy nữa chăng? Trong băng “Giờ Lâm Chung” một bạn đạo hỏi ông Tám rằng có người tu niệm cả đời mà không biết pháp tu này th́ rồi lúc chết có được cứu rỗi chăng? Trả lời rằng không, vẫn phải xuống địa ngục học lại khóa khác...

Ông bảo Phật Thích Ca khôn hơn ông cả triệu lần v́ đă niệm Nam Mô... Câu đó cũng gây thắc mắc v́ chẳng ai biết được việc niệm A Di Đà xuất hiện thời nào, người ta đoán rằng khi có Đại thừa nghĩa là sau khi Phật đă viên tịch. Dầu sao th́ bên Tàu việc niệm Di Đà chỉ phát triển từ thế kỷ thứ IV lúc nhà sư Huệ Viễn lập ra môn phái Tịnh Thổ để tránh cho Phật tử cái nạn kinh sách quá nhiều, nên tuyên dương chỉ cần niệm Di Đà là đủ, ai niệm được một ngày cũng sẽ được Phật độ về Tây phương cực lạc thế giới. Nhờ sự hứa hẹn đó đi kèm với lối tu niệm dễ dàng, mà lời niệm A Di Đà được thiên hạ theo ào ào từ đấy, không sao can được nữa.

Nhưng hăy cho là Thích Ca có niệm Lục Tự Di Đà đi nữa th́ chắc ǵ ông đă đọc chữ Nam (để mà có âm um) v́ tiếng Phạn là Na-Mô chứ không Nam-Mô. Ngoài chữ Nam ra phải nói là cả câu niệm đó là một câu lai căng v́ phiên âm sai bét: nếu theo âm Ấn th́ là Na-Mô amitabha, nếu theo Tàu th́ là Na-Mô O-Mi-To-Fo, Nhật là Amidà, chẳng thấy Nam đâu, Di đâu, Đà đâu cả.

Ta hay nghe nói Lục Tự Di Đà là nguyên lư và cả là triết lư kỳ diệu, nhưng xét kỹ th́ thấy đó không phải là nguyên lư. Nguyên lư phải có tính chất phổ biến cả trong công thức lẫn trong công hiệu: hai điều ấy không có trong Lục Tự Di Đà như vừa nói trên. Vậy kết luận Lục Tự Di Đà không là nguyên lư, cũng chưa được phát triển thành triết lư riêng biệt mà chỉ là phương tŕnh do ông Tư hay ông Tám đặt ra, có hai đợt:

Phương tŕnh đơn:         Nam = lửa

                                        Mô  = khí

                                         A = nước v.v....

Phương tŕnh kép:          Nam-Mô = soi hồn

                                         A-Di = pháp luân

                                         Đà-Phật = thiền định

Tất cả bí quyết, tất cả cái diệu dụng nằm trong đó, trong chỗ nối Lục Tự với ba phép soi hồn, pháp luân, thiền định. Chính ông Tám đă nói thế: “Nếu có bạn đạo thành thật d́u dắt đúng theo các phép soi hồn, pháp luân, thiền định th́ ba cái phép đó đủ rồi chứ không phải minh sư nói dóc lung tung vô ích” (câu 140, Vấn Đạo). Tôi thiết nghĩ những luận lư về “nguyên lư” Adiđà là... “lung tung vô ích”. Đă vô ích mà c̣n gây ra sự khó khăn không cần thiết trong việc truyền bá Vô vi cho những người không theo Phật v́ làm cho người ta tưởng lầm Vô vi là Phật pháp nên không dám vào hoặc cho là cái ǵ đă biết rồi “déjà su” không cần động đến nữa.

H́nh như việc móc nối Lục Tự vào sáu luân xa là “quán tưởng”, mà quán tưởng là điều không nên: ông Tám ví nó như cái “giây kẽm gai, nó chặn đầu bước tiến của người tu. Quán là cố ư suy nghĩ, đó là bắt buộc thần kinh làm thêm việc không cần. Vô vi phải xả hết để tâm tư quy nguyên hoàn bổn... Chúng ta phải trở về Thái Hư, quán c̣n là một thứ chưa đạt Thái Hư, chưa Vô vi” (Tôi Tầm Đạo, Kim Ấn Quán, tr.292). Có lẽ v́ đó nên quyển Chơn Lư in năm 1980 nói “phép niệm Lục Tự ở sáu luân xa không c̣n hành nữa”. Vậy tại sao trong quyển Vấn Đạo (in 1982) lại có sự quan trọng hóa niệm Lục Tự Di Đà đến độ cho là không đổi được. Thiết nghĩ v́ ông chưa vượt đợt “vô thanh vô xú” (hiểu là tập quán đă lặn xuống miền tiềm thức). Cái tội của Phật giáo là làm cho Phật soán ngôi Thượng Đế, ông Tám nhờ Kim Thân Cha đă bỏ được điều đó, nhưng cái xú th́ chưa, v́ thế ông vẫn đề cao Phật bằng tuyên dương Lục Tự Di Đà, bằng luôn miệng niệm Phật, niệm Phật đến bảy, tám lần may ra niệm Cha mới được hai ba lần (1). Có lẽ v́ cái xú của tội soán vị Thượng Đế mà mỗi khi nói đến Kim Thân Cha ông hay dùng đại danh từ “nó”, “người ta”, “y”... họa hiếm mới dùng chữ “người”, c̣n Ngài phương chi Đức Ngài th́ tuyệt không. Điều đó có thể cắt nghĩa do vô ư nhưng khi ông nói “tôi không đồng ư” (với KTC) th́ hiểu rằng những kiểu xưng hô kia phát xuất do sự ông c̣n chấp vào Phật quá đáng.

(1) Lần hội nghị 83 vừa rồi thấy khá hẳn: niệm Cha đă tăng nhiều.

Nhưng phải nhận là sự chấp này chỉ là cái xú tức quá tôn Phật v́ thói quen lâu đời để lại trong tiềm thức chứ trên b́nh diện ư thức th́ ông không nghĩ tới Phật Thích Ca đâu. Ông đă tuyên bố “nếu chúng ta tưởng tới Phật, tới Đức Thích Ca là chúng ta sai, v́ Phật đâu chẳng thấy nhưng con ma nó xâm nhập điều khiển phần hồn” v.v... (Tôi Tầm Đạo tr.2.39)

Đă tuyên bố vậy nhiều lần sao c̣n cứ bắt niệm Phật và lễ Phật để làm cho người ta tưởng tới Phật... và gây hoang mang cho những người không có hoàn cảnh để nghiên cứu sâu xa. Phật tử quen nói Trời Phật. Theo đồng văn cả Phật giáo th́ Trời c̣n bên dưới Phật. Điều đó ông Tám không đời nào chấp nhận, nhất là đă được Đức Kim Thân sửa sai. Ông chỉ giữ tên Phật v́ chiều theo thói quen bạn đạo theo Phật, hoặc giữ để phá mê; ông giải nghĩa chữ “Mô Phật” là chẳng có ông Phật nào hết trọi. Nhưng theo luật “mạnh chống mạnh chấp”: nói Phật để chống Phật th́ dần dần đi đến chỗ vô t́nh đề cao Phật hơn Thượng Đế, rồi coi ḿnh cao hơn Kim Thân Cha: “Tôi bắt c̣n lẹ hơn CK” v.v...

Thế rồi điều đó lây sang bạn đạo. Trong quyển Thượng Đế giảng Chơn Lư in năm 1983 (tr.196) sau lời nguyện “Ngọc Hoàng Thượng Đế”, th́ có đủ cả Di Đà, Quan Âm, Di Lạc y như lần in trước, như vậy là thụt lùi lại thời cần sự pḥ hộ trái với tinh thần Vô vi tự lực tự cường rồi. (Nên nhớ Đức Kim Thân cho đó là mê chấp và là óc ỷ lại nghĩ rằng kêu càng nhiều cửa càng được pḥ hộ nhiều), và eo ơi! Lại thêm ba câu đáng sợ nữa là: “con nguyện quy y Phật... quy y Pháp... quy y Tăng”. Thật là bức tường ô nhục xây chắn lối vào nhà Cha chung, quả là một sự thụt lùi to lớn so với lần in đầu (Julia Printing 1980), v́ trong đó không có câu tam quy, tỏ ra người ấn tống đă biết coi trọng quyển Chơn Lư phần nào. Đến lần in thứ ba th́ không c̣n coi trọng bằng nên đă cho cái “mùi” của Phật lấn lên: gần như coi Phật trọng hơn Thượng Đế. Đó là điều trái với lư trí v́ theo lư trí th́ ai cũng cho Thượng Đế đáng tin đáng trọng gấp vạn bội Phật. Không lẽ được mở huệ rồi lại phải đi ngược điều hợp t́nh hợp lư đó sao. Pháp lư Vô vi là nhà Cha chung cho mọi con không phân biệt tôn giáo, tại sao lại cứ muốn biến Vô vi thành của Phật bằng bắt mọi người muốn vào phải chui qua cửa Phật, hít thở mùi Phật, chẳng hóa ra đi theo lối ông vua nước Sở kia tiếp sứ Yến Anh: cửa lớn không cho đi, bắt khoét lỗ nhỏ bên cạnh rồi bảo phải chui qua đó mà vào.

Bạn sẽ nói Phật đây không là Phật Thích Ca mà có ư nghĩa khác... Thiết nghĩ các bạn đạo nên bỏ ngay thói dùng tên cũ để mang nội dung mới đó đi v́ việc gán ư nghĩa này không cần, nó chỉ “cần” khi trong cuộc cách mạng nào (của tôn giáo, của triết lư hoặc chính trị) người ta muốn giảm sự xúc động của người nghe mới phải bất đắc dĩ dùng danh từ cũ để chở nội dung mới. Nói bất đắc dĩ v́ thực ra nó là một sự đánh lừa tuy “v́ đạo” mà đánh lừa “pia fraus”, nhưng cũng chẳng nên dùng v́ nói sái khoa học sái cả với mục đích của ngôn ngữ (mỗi từ chỉ mỗi vật, mỗi việc). Vô vi không phải Phật pháp th́ đèo tiếng đó vào làm chi. Lúc đầu ông Tư đem buộc vào dưới Pháp lư Vô vi hai chữ Phật pháp, rồi dùng một số từ cũ gán ư mới để phá mê v́ ông tưởng là cần phải làm thế (có lẽ đúng cho bạn đạo ở Sài G̣n, Chợ Lớn lúc đó). Nay Vô vi đă tràn lan và phải được tràn lan khắp hoàn vũ th́ giữ thói quen đó đă không cần mà c̣n có hại v́ là làm hẹp cái đạo vốn rộng lớn, đặt cớ cho người ta hiểu lầm Vô vi chỉ là một ngành của Phật giáo, không biết đến Thượng Đế. Tôi có đứa cháu mới biết qua Vô vi, gặp một người Cao Đài hỏi: “Cháu tính tu theo ông Tám à? Tu theo ông Tám không trực tiếp với Thượng Đế bằng tu theo Cao Đài đâu!” Đó quả là một sự hiểu lầm như có thể khá phổ cập. V́ trước khi Kim Thân Cha xuất hiện th́ toàn niệm Phật, chứ có nhắc chi tới Thượng Đế đâu. Thiết nghĩ Vô vi không nên đặt căn cứ gây ra sự hiểu lầm nọ nữa.

Vô vi là pháp tu tắt, thiết nghĩ chỉ nên dùng lối nói thẳng, việc chi phải ṿng vo lung tung. Nói lung tung v́ mỗi người gán mỗi ư. Thí dụ với ông Tám th́ Phật là “tôi t́m tôi” (Vấn đạo tr.17); người khác (có lẽ ông HVE) th́ Phật là Tinh, Pháp là Khí, Tăng là Thần. Đối với ĐH Thắng th́ Phật là thanh tịnh, Pháp là điển quang, Tăng là trách nhiệm. Với người khác nữa th́ Phật là sáng suốt, Pháp là nguồn cội, Tăng là Thánh thai... Sao không nói thẳng tam bảo Vô vi là Tinh, Khí, Thần cho vắn tắt việc chi phải nói ṿng vo thế? Đă từ gần hai ngàn năm nay cả triệu triệu người, cả ngàn vạn kinh sách hễ nói tới Phật là người ta hiểu ngay là Phật Thích Ca, nói tới Pháp là Pháp giới nhà Phật, nói Tăng là chỉ các sư ni phần đông mang họ Thích, chẳng ai nghĩ khác. Măi tới nay may ra một số rất nhỏ bạn đạo Vô vi mới nói Phật mà không nghĩ đến Thích Ca, nói đến Pháp là nguồn cội, nói đến Tăng là Thánh thai... Cho nên thiết nghĩ cần phải hạn chế tối đa tên Phật (niệm Phật, đánh lễ Phật, Trời Phật) để dùng chữ Thượng Đế, Cha Lành, Chúa Tể Càn Khôn... vô số tên. Pháp lư Vô vi là Hồng ân Thượng Đế ban ra cho loài người nhưng trước hết ở đất Việt Nam th́ nên dùng từ Việt Nam được rồi: tiếng Việt Nam đâu có nghèo đến đỗi phải vay mượn ṿng vo đến thế.

Trên đây là ít điều làm lung lay ḷng tin tưởng của tôi đối với ông Tám lúc ban đầu, lung lay đến độ có lúc tôi phân vân không biết Vô vi có phải là pháp tu an toàn chăng. V́ nghe rằng mỗi khi nói là ông thả lỏng bộ đầu để nói theo điển tức theo Bên Trên hướng dẫn mà sao lại có những lời bất nhất như vậy. Thế là tôi không tin hẳn vào điển nữa. May thay tôi lại gặp được quyển Chơn Lư làm cho ḷng trí tôi thỏa măn hoàn toàn v́ tôi cảm thấy như được dẫn sâu vào cơi đạo mà không có ǵ cưỡng lư trí cả.

Câu làm tôi cảm kich nhất là khi Ngài nói rằng mỗi tôn giáo biểu thị một màu sắc của chân lư. Với tôi câu ấy có nghĩa là mỗi đạo lư (cả tôn giáo lẫn triết lư) chỉ bày tỏ được một khía cạnh của chân lư vốn có muôn khía cạnh. Câu đó tuy kiện chứng cho những điều tôi nghĩ trước nhưng đồng thời làm cho tôi hiền hẳn ra. Khi c̣n nhỏ đọc Tây Du Kư tôi chỉ muốn tặng Tam Tạng mấy cú đá đít. Nay đọc Kim Thân Cha rồi nếu gặp ông tôi chỉ cười x̣a lại c̣n tự răn ḿnh: cứ sách với vở mà không tu th́ hăy coi gương Tam Tạng. Trước kia tôi thấy các đạo lư có đến 90% là nói tầm bậy. Ngày nay khi đọc quyển Chơn Lư rồi tôi không đổi ư đó nhưng tôi đổi thái độ, thay v́ ghét bỏ 90% sai lầm kia, th́ tôi lại yêu mến 10% đúng c̣n lại. Trước kia tôi không sao dung hoà được ḷng thán phục Phật Thích Ca đă nói những lời rất sâu sắc, nhưng lại rất ghét cái tội phạm thượng trong đạo Phật. Ngày nay tôi hiểu rằng cái “tội” đó chỉ là “tội” đối với những cơi hồng trần nhỏ hẹp này, chứ đối với Chúa Tể Càn Khôn th́ đó chỉ là tṛ vui. Con người dù đă tu tới cấp Phật cũng chỉ là con người nghĩa là đối với Chúa Trời Đất chưa bằng một phần tỉ con kiến, th́ sức mấy mà phạm thượng nổi. Con kiến nếu biết nói mà nó bảo rằng nó sẽ cỡi đầu ta v.v... th́ ta đâu có mích ḷng, trái lại ta sẽ lấy làm thích thú, nuôi dưỡng, cưng chiều và chọn nó riêng ra để nó làm tṛ vui cho ta, cho các bạn ta. Con người xét là tiểu ngă trước Thượng Đế c̣n nhỏ hơn con kiến đối với ta, chỉ là một tế bào trong tỉ tỉ tế bào của Thượng Đế th́ sức mấy mà phạm tội uy quyền Ngài được, cho nên nói “tội” chẳng qua là chỉ sự con người đi sái đường tiến hóa th́ nó quật lại thân ḿnh thôi. Thế mà ngày nay đi sái đường đầy cùng khắp. Cái đó cũng là do ư Cha Trời: mọi tôn giáo dù là tà giáo cũng do Ngài cả. Ngài xếp đặt như thế để có bài cho các con của Ngài học, học đủ phía: cả trí, cả nhân, cả dũng, kể cả trong đạo, cả khi đă chọn được một chánh pháp rồi cũng không thể thải bỏ lư trí, thải bỏ óc phê phán, trái lại phải giữ lư trí tỉnh thức luôn, óc phê b́nh không được nghỉ, phải phê phán măi, nó phải theo sát nút mỗi bước tiến hóa cả khi đă mở huệ rồi, có điển hóa văn rồi cũng vậy, không những ở cơi phàm trí, mà cả khi theo những bậc đă mở huệ, đă trụ điển, v́ điển tuy ở trung tâm vũ trụ th́ vô biên nhưng khi tỏa ra th́ nhiều ít tuỳ cái chứa; cái chứa có nhiều số độ Watt khác nhau, với đèn 15 Watt th́ dễ xem c̣ ra quạ lắm. Lại c̣n vụ nổ cầu ch́, ông Tám có điển cao những lâu lâu nổ cầu ch́ liền cho ra những lời lung tung. Lại c̣n vụ câu hồ đồ nọ có thể do chính các vị có y nói ra, hoặc do Cha Trời chuyển các vị nói ra để tạo cho các con của Ngài có dịp mài dũa óc phê phán đặng vun bồi cái trí cũng như duy tŕ quyền tự chủ, tự quyết của ḿnh.

Đă vậy, lại c̣n vụ văn đạo với lư đời hai đàng khác hẳn không thay thế cho nhau được; tu đạo có cao mấy cũng không v́ thế biết được lư đời nếu không học như được tỏ rơ trong câu nói của Vô vi: “khôn thiên đàng, ngu thế gian”. Vậy phải tu cả hai. Nếu chỉ có tu “đạo” th́ việc đời vẫn không giỏi theo được, cho nên truyền thuyết nói Phật Thích Ca ăn phải nấm độc mà chết có thể chỉ điều đó, nghĩa là ông tu thanh th́ biết thanh. Nay nếu muốn biết trược th́ ông phải học trược mới biết. Suy như vậy làm tôi không c̣n mích ḷng (scandalisé) v́ những câu nói lung tung của những vị đă tu cao.

Đó là ơn ích mà tôi đă thu lượm được khi đọc quyển Chơn Lư, một quyển sách hết sức cách mạng v́ nhiều điều mới lạ xưa nay chưa sách nào nói tới như vụ tuyên bố Phật mới biết có thanh chưa biết trược, nghĩa là thanh trược khác nhau: tu bên nào biết bên đó. Điều mới nữa là Đức Ngài sửa lưng mọi tôn giáo nhưng không như những lời đả kích khác làm cho người đọc ghét tôn giáo. Ở đây tuy Ngài có sửa sai nhưng lại làm người đọc mến tôn giáo hơn. Đó là điều tôi học được nơi quyển Chơn Lư, nghĩa là sau khi đọc rồi tôi vẫn c̣n nghĩ như trước nhưng thay đổi thái độ. Trước kia tôi không thể hiểu tại sao tu cao như Thích Ca hay ông Tám mà c̣n có những câu hồ đồ nọ. Có đúng hồ đồ hay tôi hiểu sai? Nay tôi thấy cái nh́n lư trí của tôi không sai, nhưng hai chữ “màu sắc” của Kim Thân Cha làm cho trường hoạt động trong tôi đổi rồi: trước kia dồn xuống chân trong tư thế sẵn sàng đá, nay chuyển lên miệng để sẵn sàng cười x̣a. Trước kia tôi cho các điều nói về các thứ huệ với các quyền năng của Phật là phóng đại kiểu chưởng: nghĩa là con đường trở về với Thượng Đế dài vô cùng, ông Phật chưa chắc đă đi được 10%, mà người đời đă dám tâng bốc ông lên trên ngôi Thượng Đế, nhưng nay tôi đặc biệt chú ư đến 10% đă đạt được của ông Phật hay ông Tám hay cả các tôn giáo khác, và đem ḷng kính phục mến yêu coi tất cả như trăm ngàn hoa với muôn màu sắc đang làm cho thơm đẹp cơi đời: tất cả đă làm ơn cho con người. Nếu như thiếu tôn giáo th́ cơi thế chắc đă trở nên hỏa ngục lâu rồi. Việc các tôn giáo phạm đầy những khiếm khuyết lỗi lầm th́ đấy cũng là do ư Cha Trời để cho các con của Người có thêm bài học về trí, không thể ỷ lại vào bất cứ cái ǵ dù là tôn giáo, nhưng phải luôn luôn tỉnh thức.

Hổi tỉnh lại thấy ḿnh đang miên man suy nghĩ như vậy thật là khác với trước kia, làm cho tôi cảm động vô cùng; tôi cảm mến Cha Trời đă đổi tâm thức tôi như vậy đó, xoay cái nh́n của tôi theo chiều hướng ḥa hoăn từ lúc nào tôi không hay. Rồi tôi lại suy về chính ḿnh cố gắng biết bao mà c̣n bê bối thế đó, đă chắc ǵ đạt đuợc trong muôn một. Nghĩ như vậy tôi bắt đầu “tôi cười tôi” và trở nên hiền, và sẽ cố gắng trở nên hiền hơn nữa. Tôi không sám hối; sám hối là tỏ quyết tâm không tái phạm. Cười cũng tỏ quyết tâm như vậy nhưng c̣n đúng với tinh thần đạo Trống, theo đó th́ cuộc đời chỉ là một cuộc chơi, nên chỉ việc đánh trống bụng mà cười kh́: việc chi phải đá đít, việc chi phải băn khoăn mà chỉ c̣n là cười, cười chính ḿnh tôi: tôi cười tôi thả dàn.

Tôi cười tôi

Cười măi măi trên con đường Mê và Phá Mê bất tận.

“Quỳ long cổ phúc tiếu hi bi”.

XIII. Từ Cưỡng hoà tới An hoà

 

Ḥa th́ ai cũng mong muốn và sẵn sàng để ḥa nhưng thiếu điều kiện bất khả vô (conditio sine qua non) không thể nào có ḥa, dù thiện chí đến đâu cũng chỉ là tạm bợ, sớm muộn ǵ cũng sẽ chia rẽ kiểu nọ hoặc kiểu kia.

Điều kiện ḥa trong ngắn hạn thuộc nhân sự do một người có khả năng lănh đạo, được nhiều người quư mến nên dễ được phục tùng. Khi có người đó dù chưa ḥa rồi cũng có ḥa mà hậu quả trông thấy là một tụ họp hoặc tổ chức nào đó: văn nghệ, xă hội, chính trị và cả một tôn giáo mới nữa.

Điều kiện dài hạn là một thuyết lư ḥa giải làm nền móng. Ta sẽ gọi là An ḥa, c̣n ḥa ba phải thiếu nền móng triết sẽ tạm gọi là cưỡng ḥa. Thiếu An ḥa các công tŕnh ḥa giải khác chỉ là những thử thách không thể đưa tới thành công trường cửu như bao cuộc ḥa giải đă cố đưa ra cũng đều thất bại, cùng lắm chỉ là một thứ tạm ước “méo mó có hơn không” phải dùng đỡ v́ chưa t́m ra thứ An ḥa có nền móng, có địa vị minh triết và triết lư. Thiếu nó những thứ ḥa kia chỉ là cái mặt bên ngoài làm bằng ngoại giao, không đủ sức triệt căn những mối bất ḥa ngấm ngầm nội tại. V́ thế cần phải t́m cho ra thuyết lư vững vàng. Đó là việc thiên nan vạn nan, cho tới nay rất là hạn hữu.

May thay trong Vô vi đă được Bề Trên ban cho: ngắn hạn là Kim Thân Cha, dài hạn là quyển Chơn Lư. Đó là ơn huệ lớn chưa thấy trong lịch sử loài người, không bút mực nào tả xiết, lẽ ra người Vô vi phải đầy ḷng cảm mến học hỏi và tuân theo. Thế mà kỳ lạ thay, những lời tri ân đó quá hiếm hoi, hay nếu có th́ cũng bị che lấp bởi những lời nói về công nghiên cứu của con người. Điều đó rất có thể gây trở ngại cho việc truyền bá Vô vi hay ít ra che lấp mất tính chất khoa học của pháp môn này. V́ vậy mà bó buộc phải nói thêm ít lời để bàn đến chỗ triệt để.

Việc ḥa hợp mà Kim Thân Cha nói đến nhiều nhất, cho là tinh thần của Vô vi không thể là một thứ ḥa bất kỳ nào không cần đến nền tảng mà phải là một cuộc An ḥa tức có nền móng triết lư và minh triết hẳn hoi, v́ quả đó là điều trong quyền năng Ngài. Vậy không phải là cái Ḥa ba phải do sự bất lực đưa ra nền triết lư ứng hợp nên phải đi ve văn mọi nơi, tỏ ra ḿnh sẵn sàng ḥa đồng. Ḥa kiểu đó th́ chưa biết kết quả tích cực tới đâu chứ nó dễ làm cho pháp lư của ḿnh chóng trở nên một món hổ lốn, không bao lâu sẽ đầy nhóc dị đoan như đă xảy ra với hai đạo Lăo và Thích bên Tàu từ thế kỷ thứ II về sau. Trong suốt thời gian đó cả hai vừa đánh vừa đàm: nghĩa là hết đồng ư nhau th́ đến đá nhau. Hậu quả là từ thế kỷ XII cả hai suy tàn. Đó là tại đă theo kiểu cưỡng ḥa chớ không là an ḥa, mà câu châm ngôn cụ thể là “ḥa nhi bất đồng” với ư nghĩa là phải ḥa với hết mọi người dù khác ư kiến, khác tôn giáo, đảng phái... ḿnh vẫn phải kính trọng không được khinh khi, nhưng trên phương diện ư kiến và triết lư ḿnh vẫn có thể là ḿnh, vẫn có thể bất đồng ư kiến, nhờ vậy mới tránh được dị đoan mê tín. Theo tinh thần ấy ta vẫn có quyền phân tích và phê phán các đạo lư mà không sợ mắc tội cống cao ngă mạn, miễn là ḿnh ḥa với mọi người dù họ theo đạo khác, dù đạo ấy ḿnh cho là thấp kém hay cả sa đọa. Đó là điều không thể cấm lư trí xét đoán như vậy: một lư trí lành mạnh phải biết đâu là cao đâu là thấp, đâu là trung thực đâu là suy vi.

Xưa nay thấy một vị lập thuyết hay lập đạo nào lại không khởi đầu bằng việc phê b́nh gắt gao các thuyết đương thời. Phật Thích Ca được tiếng đă đánh đổ hai triệu thần phái Brahma, Ngài đă dùng cả đến những lời lẽ có thể gọi là cạn tàu ráo máng như ví cuộc rước của tăng lữ đạo Bàlamôn là đoàn chó cắn đuôi nhau mà kêu om om đ̣i ăn (có ư nhái tiếng ‘aum’ là tiếng thánh của đạo Bàlamôn). Trong hoàn cầu có vô số tôn giáo, cao có thấp có. Đó là điều cần thiết cho con người ở nhiều hoàn cảnh cách biệt nên phải có nhiều tôn giáo hợp với tŕnh độ rất khác nhau của mỗi người. Lư trí con người khi nó lành mạnh tự nhiên thấy đạo nọ cao đạo kia thấp. Dù cái thấy đó có thể sai, nhưng thấy như vậy là điều cần để nó chọn tôn giáo hay phép tu ứng hợp tŕnh độ ḿnh. Cho nên sự thấy đạo nọ cao, đạo kia thấp là điều không thể tránh. Vậy làm thế nào để giữ chữ Ḥa. Thưa lúc ấy ḿnh chỉ cần suy nghĩ là mỗi người có một tŕnh độ. Cái đạo kia tôi cho là “kém” lại hợp cho người khác. Tŕnh độ con người có muôn cấp bậc, nếu lấy lẽ phải ḥa mà đồng với tất cả th́ là biến ḿnh thành người vô bản lănh, có khi lộn trở lại thời Bái vật (v́ “ḥa” nên phải thâu nhận dị đoan).

Theo tinh thần đó chúng ta cần bàn thêm về chữ Ḥa của Vô vi: ta sẽ hỏi Vô vi phát xuất từ Tam giáo, tại sao Cha Trời không chọn Ấn, Tàu lại chọn Việt. Ta đă nghe nói Phật đă phá các thần Brahma, vậy là đi đến chỗ đề cao con người, đưa con người lên bậc nhân chủ, nhưng xét về cơ cấu th́ Phật chưa hẳn đạt ngũ hành, tuy đôi khi Phật có lấy ngũ tố của phái Sankhya nhưng tố thứ năm là ether giống của Aristote tức cùng b́nh diện hiện tượng với tứ tố nên là duy Hữu chứ không phải là ḥa Hữu với Vô như ngũ hành: nơi chẵn là giao thoa, mà trái lại nghiêng hẳn sang số chẵn như đă nói trên. Tuy sau nhà Phật có thêm “tam tế” vào “tứ đại”, nhưng tam tế cũng c̣n là có, có cách tế vi nên chưa là An ḥa, chưa đạt quân b́nh giữa Có Không, mà đă nghiêng sang duy thức.

Nói theo tôn giáo th́ quả là vô thần: “thiên thượng thiên hạ duy ngă độc tôn”. Tôi không tin là Phật tổ đă nói câu đó, mà do các nhà làm truyện đặt vào miệng Ngài. Tuy nhiên câu đó nói trúng đạo Phật lúc sau khi coi Phật là cao nhất trên trời dưới đất không ai bằng.

Khi truyền vào Tàu, Phật giáo đă mượn biệt ngữ của đạo Lăo để dịch kinh sách, những tên cao cả nhất đă được dùng gọi Phật là Đạo, là Không, là Thiên tôn. Thiên tôn là nói tắt thay cho “Nguyên thuỷ thiên tôn” tức vị cao nhất trong đạo Lăo (vị nh́ là Ngọc Hoàng Thượng Đế). Đến sau v́ sự tranh chấp với Đạo giáo mới đổi Thiên tôn ra Thế tôn nhưng ư nghĩa vẫn là cao cả nhất cao hơn cả Thượng Đế. Thượng Đế bị đẩy xuống bậc thừa hành, để Phật tổ Thích Ca Mâu Ni ở đợt lập hiến rồi “phó thác cho Ngọc Hoàng Thượng Đế từ thế gian đến âm phủ phải tuân pháp luật hiện hành” (kinh A Di Đà, ấn bản do ông Tư tr.135). Đă hạ đo ván Thượng Đế vậy mà coi như chưa cho là đủ nên tr.143 c̣n nói thêm “thiên đàng có hai thứ điển: văn điển là điển Phật, c̣n điển của Ngọc Hoàng Thượng Đế là vơ điển”. Thế là Ngọc Hoàng Thượng Đế bị mất ngôi vị, thiếu điều bị đặt vào hàng bàng môn tà đạo. Thành thử đọc kinh nhà Phật để có cảm tưởng là đọc sách vô thần v́ sự vắng mặt của Thượng Đế, ông Phật kiêm tuốt kể cả việc sinh sinh hóa hóa. Bao nhiêu chữ Không hay chữ Cha trong đó đều phải hiểu về Phật hết, Trời chẳng có được lời nào. Có lẽ đôi khi tác giả quyển kinh cảm thấy sự vụ không ổn nên đặt ra một vị Phật tổ gọi là Hắc B́ Phật có quyển chủ tể càn khôn y như Trời. Tuy nhiên điều đó không ổn v́ thiếu ǵ tên mà phải dùng tên Phật để chỉ Trời, có thể dễ lầm lắm, như cứ sự đă xảy ra rồi, tức là quả có sự lẫn Phật tổ với Phật Thích Ca, Kinh A Di Đà trang 104 nói: “Bạch Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni”. Sự lầm lẫn đó được tiếp nối xuyên qua bao thế kỷ, măi gần đây mới thấy đưa ra phân biệt Ngọc Hoàng Thượng Đế ở cơi trung thiên... nhưng đó là truyện quá mới và là của phái Vô vi mà cũng mới đây thôi, không thể xóa tội soán vị Thượng Đế trong hai ngàn năm qua, chính nó đă là cớ cho Phật giáo bị mang tiếng bất hiếu với Thượng Đế. Thiết nghĩ Vô vi nên bỏ sự phân biệt rắc rối nọ: xin bỏ hẳn tên Hắc B́ Phật tổ, có thể cả mọi tên Phật kể cả Phật Adiđà, v́ tên Phật đă can dự vào “tội soán vị”. Nếu muốn giữ Adiđà th́ nên nói Đức Adiđà hoặc Đức Vô Lượng Quang hiểu là một thiên vương hay thế vương. Không thể vịn cớ Phật là con Thượng Đế nên gọi Thượng Đế là Phật chẳng sao. Làm thế là trái luật ngôn ngữ mà c̣n trái lễ giáo của ta cũng như thói chung của loài người là mỗi vật phải có một tên, phương chi Thượng Đế sao lại không đáng gọi tên, không những đáng mà c̣n phải là tên rất thánh, một đại huư, không được một ai cả gan dành giật. Vậy mà một Phật tử nào đó đă dám dành giật ngôi vị Thượng Đế cho Phật khi đặt vào miệng Phật câu nói “thiên thượng thiên hạ duy ngă độc tôn”. Đó là tôn thờ Phật cùng cực nhưng cách liệt vị, nên vô t́nh cũng là chửi bố Phật. V́ Phật đă nói nhiều lần: “Đạt được vô ngă mới là đạt Đạo” vậy mà nay bảo Phật tuyên bố: “duy ngă độc tôn” th́ có khác chi nói Phật chưa đạt Đạo. Thế nhưng v́ quá tôn thờ Phật mà bao thế hệ Phật tử quư trọng câu nói đó. Đôi khi cảm thấy có chỗ mâu thuẫn th́ lại dùng lư trí biện chứng t́m cách giải nghĩa quanh co gượng ép. Đấy là một sự sa sút đặc biệt. Sự sa sút th́ tôn giáo hay thuyết lư nào cũng mắc hết: nó ở tại suy tôn quá đáng nhà lập đạo hay một vài vị nào đó lên ngôi hầu như tuyệt đối, khiến chắn mất đường đi về cùng Thượng Đế. Đàng này Phật giáo không thèm chắn mất đường mà đặt Phật lên trên Thượng Đế. Tại sao lại có truyện kỳ lạ như vậy. Có thể v́ Phật tổ đă đắc đạo thật cao, có một sức thu hút mănh liệt hầu như thôi miên khiến Phật tử trở nên mê mẩn, coi lời Phật là Chân lư vô cùng và thân thế Phật là tuyệt đối siêu việt. Điều này càng dễ xảy ra hơn là v́ Phật giáo chỉ nói tới có tham, sân, si mà không thấy nói mối tội thứ tư là bám víu (moha) và mối thứ năm là ‘Ahankara’ (vanity: ham khoe khoang) đề cao quá đáng cái ngă của ḿnh. Cả hai tội nhất là ‘moha’ được kể là mối rất sảo diệu v́ nó khéo t́m cách thấu nhập tâm hồn dần dần để làm cho trí con người nô lệ vào những giá trị tương đối được nâng lên hàng tuyệt đối, rồi dừng lại ở đó mà không tiến lên đến cùng tột là Thượng Đế. Không hiểu sự phân tích trên đúng đến đâu nhưng cứ sự th́ Phật tử nào đó đă phạm tội liệt vị khi đặt Phật trên Thượng Đế.

Từ sự đặt vị trí nền tảng sai trật nọ đă xảy ra nhiều cái xếp đặt sai khác thí dụ các cung, các cơi trên trời th́ Phật c̣n được xếp trên Thiên Tiên. Cái bảng đó có thể đúng, có thể sai không quan trọng v́ nó là cái lược đồ do óc tưởng tượng bày ra cốt cho ta một ư niệm đại khái để biết là đường tiến hóa triền miên... Hiểu như vậy th́ đó là một bảng có ích; nhưng nó trở nên có hại từ lúc người ta đồng hóa cấp Phật với Phật Thích Ca, để rồi dè bửu Tiên đạo cho là thấp hơn Phật, biểu lộ một thứ kiêu thái rất khó định tính, nhưng biết rằng chúng đều phát xuất do cái “tội” liệt vị soán quyền cả Hoàng thiên lẫn Thượng Đế.

Thôi chỉ xin nói sơ qua thế đủ tỏ rằng Phật giáo đă bị suy thoái rồi, không c̣n là chất an toàn có thể dùng nhiều để bón cây Vô vi. V́ thế mỗi lần vun trồng cây Vô vi bằng chất Phật là Vô vi bị mắc thẹo. Ví dụ kinh Adiđà tuy do ông tổ Vô vi viết để giải nghĩa kinh theo ánh sáng Vô vi mà vô t́nh vẫn truyền lại cái tội liệt vị, soán ngôi Thượng Đế, rồi cả đến nhiều chục trang kể hàng trăm tên Phật dài tḥng, lâu lâu lại cho ra một câu kinh khủng, thí dụ: “kể từ thai thiên lập địa đến nay đă 2000 năm rồi (tr.25 phần II). Những câu như vậy làm cho người đọc dễ mất ḷng tin vào những lời ca ngợi quyển kinh, và rồi không tin cả pháp Vô vi nữa.

Đến quyển Địa Ngục Du Kư cũng gây thắc mắc ở chỗ tinh thần Vô vi là tinh thần Di Lạc an vui với luân lư tích cực (tức khuyến đức hơn là hăm dọa). Hăm dọa chỉ là truyện cưỡng hành cực chẳng đă mới phải dùng v́ dùng kiểu đe loi là coi thường người đọc. Ta quen nói “người khôn nói mánh, người dại đánh đ̣n”. Dùng lối đe loi chưa chi đă đưa địa ngục ra hù là ngầm hiểu rằng tụi bay toàn lũ đáng đánh đ̣n... Vô vi có quá nhiều điều hay rất tích cực, cần chi phải dùng đến những kiểu hù tiêu cực nọ. Đây không có ư đặt vấn đề có với không có địa ngục mà là vấn đề có hợp hay không hợp tinh thần Vô vi là tinh thần hoàn toàn kính trọng nhân chủ tính nơi người nghe, không hề dùng những lời ngăn đe như không tin th́ phải sa địa ngục. Ngay việc Thượng Đế giáng phàm mà Kim Thân Cha c̣n nói: “không tin cũng được con ơi”... Dùng đến địa ngục mà giục người tin là hạ sách, chả hóa ra giống nhiều chùa vẽ cảnh địa ngục rất dữ khiến người xem thấy sợ quá phải rộng tay cúng dường, mở đường cho những kẻ xấu miệng nói địa ngục chỉ là một mánh khoé làm tiền, rồi giảm mất ḷng tin vào sự có địa ngục. Sợ những kẻ quá sính khoa học c̣n chê Vô vi cũng là phường tin nhảm nhí, v.v...

V́ vậy thiết nghĩ cũng nên xử đối như quyển kinh Adiđà là phát ra rất hạn chế. Trí óc con người đời nay quá sính khoa học, nhiều khi đến chỗ duy lư. Chưa chi họ đă thấy tủ sách Vô vi đầy tràn địa ngục với thiên đàng là tiên thiên họ không thèm lư đến Vô vi nữa. Muốn phát triển chữ Ḥa cho tới An ḥa thiết nghĩ các bạn Vô vi nên đọc quyển Chơn Lư. Đó là quyển sách có một không hai đầy tràn minh triết mà cũng là triết lư luôn, rất xứng đáng phải được coi là Kinh trên các kinh của Vô vi. Đọc đi đọc lại và quân cứ sẽ tránh được cái bề ngoài của “tội liệt vị”: trên chưa triệt thượng, tức coi như kính nể ông Tám hơn Thượng Đế (chứng cớ là về việc niệm...), dưới chưa triệt hạ: ít lo đáp ứng nhu cầu khoa học... Tôi đặt dấu ngoặc kép trên chữ “tội” v́ sự thực Vô vi vô tội, mà chỉ là vô t́nh, nhưng dầu vậy cũng nên tránh cái bề ngoài đó để việc truyền bá Vô vi xuôi chèo mát mái hơn, không vô t́nh cản trở việc thiết lập nền An Hoà đó cũng là giúp vào Cơ Quy Nhất. Các sách đạo Phật mà ta biết được đă thuộc kỳ suy thoái nên ít nhiều đă kéo theo dị đoan, nếu không th́ cũng mang đậm nét đặc thù của Ấn Độ là hiểu chữ Vô kiểu siêu h́nh, gây ra nhiều điểm khó hiểu, khó được mọi người chấp nhận.

C̣n một điểm nữa cần được nhấn mạnh là Vô vi nên vâng lời Cha mà niệm danh Cha. Niệm Phật không ổn, đó chỉ là việc tạm chuẩn cho những con “chưa hiểu”.

Tại sao Cha dạy niệm Cha th́ Cha không nói ra, Ngài chỉ nói con nào biết niệm (Cha) th́ càng hay. Nếu c̣n băn khoăn, hay chưa quen, chưa hiểu th́ cứ tiếp tục niệm Adiđà cũng được. Mấy chữ trên là do tôi gạch để đặt nổi tính cách tế nhị của Cha, Cha chỉ nói “càng hay” là đặt việc niệm Cha bên trên niệm Phật, con nào “chưa hiểu” th́ tiếp tục niệm Adiđà cũng được. Hiểu ǵ đây? Theo đồng văn th́ có hai điều phải hiểu:

Trước hết Vô vi là Hồng Ân Cha ban, một ân rất đặc biệt không nên đồng hóa với Phật giáo mà làm nhẹ bớt đặc ân đó. Trái lại phải tŕnh bày Vô vi như một pháp tối tân. Vậy phải có lời niệm riêng biệt, v́ lời niệm (hay lời nguyện) của một đạo pháp kể được như lá cờ của đạo pháp ấy. Mỗi đạo pháp có một lời niệm của ḿnh th́ cũng như có một lá cờ riêng để người ta dễ phân biệt. Vô vi là một pháp rất đặc sắc lại không đáng có một kư hiệu riêng sao?

Thứ đến có một lư do đặc biệt nên tránh niệm Phật v́ trong phạm vi triết đạo Phật đă phạm tội liệt vị tức hạ bệ Thượng Đế thật thấp, khiến cho con đạo hầu không biết chi đến Thượng Đế. Nay Vô vi cứ niệm Phật th́ bên ngoài người ta dễ có cảm tưởng là chửi vào mặt Cha, coi Cha như chưa đủ thế lực nên phải niệm Phật để tăng cường (a). Ta cũng nên biết là niệm Phật ngay trong đạo Phật cũng bị coi là bất đắc dĩ v́ tŕnh độ ngu si của người theo. Trong Tuyệt Quán Luận của Bồ Đề Đạt Ma tức ông tổ Thiền có đoạn sau: “Hỏi: Đă nói Không là gốc đạo th́ Không là Phật chứ ǵ? Thưa: chính thế.

Hỏi: Nếu Không quả là Phật th́ tại sao thánh nhân chẳng khiến chúng sinh niệm Không mà lại dạy niệm Phật?

Thưa: V́ chúng sinh ngu si, nên mới chỉ dạy niệm Phật. C̣n với người có đạo tâm th́ dạy quán Thực tướng cái thân này cũng như quán Phật vậy. Này, nói Thực tướng tức là nói Không, là nói Vô tướng vậy. V́ ngu si chúng sinh giáo lệnh niệm Phật. Nhược hữu Đạo tâm chí sĩ, tức lệnh “quán thân Phật tướng” (Đoạn 4 câu 6 và 7). Thật là rơ ràng: Vô vi và niệm Phật là đi mượn lời niệm, mà lại mượn phải lời niệm hạ cấp dành cho những kẻ ngu si đó!

Đàng khác Cha ban Vô vi là cốt để lo Cơ Quy Nhất đặng đưa mọi người quy vào một mối. Vậy mà lại niệm Phật là tôn giáo có nền triết lư chưa đạt Thái Nhất cũng gọi là An ḥa, lại cứ sự đă chia năm sẻ bảy (b) hỏi có ứng hợp cho mục tiêu quy nhất của Cha chăng?

Hai điều trên (a và b) chỉ là lấy trí phàm mà suy luận th́ cái lư nó phải ăn chịu như thế chứ thiệt t́nh Phật tử cũng như bạn đạo Vô vi không hề có ư phạm tội như vậy, v́ thế niệm Lục Tự Di Đà vẫn rất linh nghiệm. Cha Trời chỉ kể có ḷng thành tâm chứ không chấp nhận tội vô t́nh. V́ thế Cha nói: “Cứ tiếp tục niệm Adiđà cũng được”. Chữ “cũng” phải hiểu là chưa được ổn, c̣n phải tiến lên cao hơn. Phải đi từ chỗ “chưa hiểu” đến chỗ hiểu.

Có hai lư do buộc phải hiểu nổi mấy chữ Cha nói mánh “càng hay”, “cũng được” hay sao? Sở dĩ tôi nói đến người Việt th́ không v́ tự ái quốc gia, nhưng v́ Cha Trời đă chọn đất Việt để ban đặc ân, đó là điều bắt buộc phải kể tới. V́ thế tôi nghĩ nên dùng tiếng Việt trong lời niệm: Kính lạy thay v́ Nam Mô, chữ này đă gắn chặt vào Phật từ hai ngàn năm rồi: nên vừa nghe tới là người ta nghĩ ngay tới Phật, rồi người Vô vi mất công giải thích lê thê mà vị tất đă xóa được cảm tưởng lúc đầu.

Sau là phải nghĩ tới mục tiêu Vô vi là Quy Nhất: tức là đưa nhân loại quy về một mối, nên bạn đạo Vô vi phải nghĩ tới quốc tế, trong đó sẽ có rất nhiều “con” v́ lư do nọ kia không chịu niệm Phật... rồi do đó không chịu chấp nhận Vô vi, thí dụ họ có thể nói nếu quy nhất th́ phải quy về Thượng Đế, chứ sao lại quy về Phật. Phật là tôn giáo quá đặc thù làm sao dùng để quy nhất được, v.v.... Có nhiều lư do để Vô vi không được mọi người chấp nhận, nhưng đó phải là do tŕnh độ của họ mà không do trở ngại do Vô vi đặt ra một cách không cần thiết. V́ những lư do trên các bạn Vô vi nên cố tiến tới lời niệm chính thức của Vô vi là:

KÍNH LẠY NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ VÔ CỰC ĐẠI THIÊN TÔN

 

Có vài triệt trong Chơn Lư liên hệ tới lời niệm, xin được trích ra đây để tiện suy đi nghĩ lại: “Cho nên, niệm Adiđà là đánh thức phần sáng suốt trong con. Niệm danh Thượng Đế là đánh thức trực tiếp chính con vậy. Và khi con đă thức dậy, sinh động lại, có nghĩa là thể tính sáng suốt trong con tự nhiên nó phải sinh động lại rồi, v́ nó là một thành phần của con, con ngủ th́ nó ngủ, con thức th́ tự nhiên nó thức. Do vậy, để con thấy rằng niệm danh Thượng Đế tức là đă niệm Adiđà trong đó rồi, khỏi có ǵ thắc mắc, sợ niệm danh Cha, bỏ Adiđà không mở được lục thông. Mở luôn chớ con! V́ khi chính con tỉnh dậy, phần sáng suốt trong con dĩ nhiên sẽ linh động lại, phát triển dần, các luân xa trong con nhờ đó mà mở và phát triển.

Con ơi, Thượng Đế là Càn Khôn vũ trụ, niệm Thượng Đế là gồm cả Càn Khôn trong đó rồi. Mọi Phật, Tiên, Thần, Thánh đều có trong đó, con chẳng sợ thiếu thứ ǵ, các con khỏi phải vừa lo niệm Thượng Đế, vừa niệm Adiđà, Quan Âm... Nhiều đứa, Cha thấy vừa niệm danh Cha, vừa niệm Di Đà, vừa niệm danh nhiều Phật khác. Nghĩ rằng nhiều Vị như vậy “chắc ăn” hơn, nhiều vị pḥ hộ cho ḿnh tốt hơn! Nghĩ vậy, v́ các con này chưa hiểu nguyên lư của Trời, Đất, chưa hiểu nó là ai, nó chưa biết bản chất Thượng Đế của nó. Nó chưa thấy được sự vĩ đại của nó đến ngần nào”...

Khi con niệm danh Thượng Đế, con phải hiểu con cũng đang niệm chính danh của con đó. Đấy là con biết tưởng Thượng Đế như ư Thượng Đế muốn, và con cũng đă đặt con ở đúng vị trí của con. Niệm như vậy mới là biết niệm: Đây là chánh niệm mà cũng là chánh kiến, chánh tín, chánh định, chánh tư duy của Phật giáo đó con. Và Cha cho chúng rơ, khi con biết chánh niệm, thí dụ không cầu, không vọng sự pḥ hộ chở che cứu giúp, con lại đuợc hộ giúp, che chở hữu hiệu hơn, đắc lực hơn nữa. Tại sao? Lẽ dễ hiểu là v́ kẻ vọng niệm phần trí tuệ chưa sáng suốt bằng kẻ chánh niệm. Linh hồn nó yếu đuối và kém tiến hóa hơn v́ chỉ biết hướng tới tha lực mà không biết tự lực, chỉ thấy sức mạnh bên ngoài, mà không thấy sức mạnh sẵn có trong chính nó để biết tận dụng sức mạnh đó. Cho nên khi con niệm để cầu được cứu giúp, điểm của con không sáng bằng khi con chánh niệm. V́ nếu con biết chánh niệm, khi ấy điển trong bản thể con sẽ ḥa cảm với khối điển sáng suốt Càn Khôn”...

“Cha vừa giảng cho chúng con hiểu thêm cách thức niệm. C̣n việc niệm Thượng Đế con khỏi phải thắc mắc. Con nào biết niệm th́ càng hay. Nếu c̣n băn khoăn, hay chưa quen, chưa hiểu, th́ cứ tiếp tục niệm Adiđà cũng được”... (Chơn Lư, câu 22)

Nguồn: http://anviettoancau.net

 




Nhóm mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang : Trùng Phùng Đạo Nội
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com

Email: thuky@vietnamvanhien.net

"Bất chiến tự nhiên thành" chi kế
Văn Hiến ngàn năm sử đă đề
  Giải trừ quốc nạn bằng Tâm lực
"Nhân Chủ (tự chủ) - An Vi (an lạc)" khai lối về


Lấy Tâm Lực thay cho vũ lực để giải trừ quốc nạn là phục hoạt nếp sống Văn Hiến.
Phục hoạt nếp sống Văn Hiến là phục hồi nền An Lạc và Tự Chủ ngàn đời cuả Việt tộc.

Trang mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa của Việt tộc. Thắp sáng niềm tin Diên Hồng và nếp sống Văn Hiến hầu phục hồi nền "An Lạc & Tự Chủ" ngàn đời cuả Việt tộc.